khi đó đã tồn tại, cho nên tôi cho rằng tìm kiếm chính là tin.”
“Bí Mật Lớn là gì vậy?”
“Tôi rất muốn biết. Thông tin đó đã thất truyền. Biên niên sử nói rất ít
về nó. Cho rằng đó chính là điều mà Dòng tin vào.”
“Chính vì vậy mà họ tìm kiếm nó à?” Stephanie hỏi.
“Cho đến gần đây họ vẫn chưa thực sự tìm kiếm. Họ có quá ít thông tin.
Nhưng Trưởng giáo đã nói với Geoffrey rằng ông ấy tin rằng bố tôi đã đi
đúng đường.”
“Tại sao De Roquefort muốn có được nó đến vậy?” Malone hỏi Mark.
“Tìm ra Bí Mật Lớn, tùy thuộc vào việc đó là cái gì, rất có thể sẽ khiến
cho Dòng xuất hiện được trở lại ở tầm mức thế giới. Hiểu biết đó cũng có
thể làm thay đổi về căn bản Cơ đốc giáo. Hắn muốn Nhà thờ Thiên Chúa
giáo phải bị coi là đã chơi trò đạo đức giả, và thanh danh được trả lại cho
Dòng.”
Malone kinh ngạc. “Anh muốn nói gì?”
“Một trong những tội danh được gán cho các Hiệp sĩ Đền thờ vào năm
1307 là thờ cúng thần tượng. Người ta cho rằng Dòng thờ phụng một cái
đầu có bộ râu, nhưng điều đó không hề được chứng minh. Ngay cả đến giờ,
người Công giáo vẫn cầu nguyện trước các hình ảnh, Tấm Vải liệm Turin
là một trong số đó.”
Malone nhớ đến điều mà một sách Phúc Âm đã nói về cái chết của
Christ - sau khi hạ Người xuống người ta đã quấn Người vào một tấm vải -
biểu tượng linh thiêng đến mức một Giáo hoàng sau này đã tuyên bố rằng
trong lễ mixa cần phải đọc kinh trên một tấm vải. Tấm Vải liệm Turin, mà
Mark vừa nói đến, là một tấm vải thêu chữ chi trên đó có in dấu hình của
một người đàn ông - cao sáu feet, mũi thẳng, tóc dài chấm vai, bộ râu rậm,
với những vết thương do đóng đinh trên tay, chân, và đầu, và những dấu vết
roi đánh ở trên lưng.
“Hình ảnh in trên tấm vải liệm,” Mark nói, “không phải là Christ. Đó là
De Molay. Ông ấy bị bắt vào tháng Mười năm 1307 và vào tháng Giêng
năm 1308 bị đóng đinh lên một cái cửa trong Đền thờ Paris theo đúng hình
dạng của Christ. Bọn họ đã chế giễu ông ấy vì ông ấy đã thiếu lòng tin vào