mở thẳng lên trời với những cây cột và chữ viết trên đó đã bị hàng thế kỷ
thời tiết và ánh sáng làm mờ đi đến không thể phân biệt được chữ nào với
chữ nào nữa. Rêu, dương xỉ, và cỏ phủ rậm rạp đầy mặt đất, cái sàn nhà
bằng đá đã từ lâu biến thành cát. Những con châu chấu cất tiếng kêu rả rích
nặng nề.
Những căn phòng không còn được phân định rõ rệt nữa, vì mái nhà và
phần lớn các bức tường đã đổ sụp, nhưng vẫn còn nhận ra được từng
khoang phòng của các thầy tu, cũng như một cái sảnh lớn và một căn phòng
rộng khác hẳn trước đây từng là một thư viện hoặc phòng chép sách.
Malone biết rằng cuộc sống theo lối đó chắc là phải thanh đạm, buồn bã, và
khắc khổ lắm.
“Trông giống như nhà của ông ấy,” anh nói với Henrik.
“Tôi chỉ đang ngưỡng mộ cái mà một trăm bốn mươi nghìn đôla có thể
mua được vào mười hai năm trước đây thôi.”
Cassiopeia có vẻ ngây ngất. “Mọi người có thể tưởng tượng được là các
thầy tu có thể trồng được ngô từ đất đai khô cằn như thế này không. Mùa
hè ở đây ngắn lắm. Ngày cũng rất ngắn. Như thể chúng ta vẫn còn nghe
thấy họ hát vậy.”
“Nơi này giống như bị bỏ rơi từ lâu lắm rồi,” Thorvaldsen nói. “Một nơi
ẩn náu.”
“Lars đã mua chỗ này dưới tên ông,” Stephanie nói, “chắc là phải có lý
do. Ông ấy đã đến đây có lý do. Hẳn là ở đây phải có gì đó.”
“Có thể!” Cassiopeia lên tiếng. “Nhưng tu viện trưởng trong làng nói
với Mark rằng Lars không tìm thấy gì cả. Có thể là ông ấy suốt đời chỉ đi
đuổi bắt mà thôi.”
Mark lắc đầu. “Bản mật mã đã dẫn chúng ta đến đây. Bố tôi đã ở đây.
Ông ấy không tìm thấy gì cả, nhưng ông ấy nghĩ là nó đủ mức độ quan
trọng để mà mua. Hẳn đây phải là chỗ chúng ta cần tìm.”
Malone ngồi lên trên mấy mẩu đá và nhìn chằm chằm lên trời. “Chúng
ta còn khoảng năm hoặc sáu tiếng trời sáng nữa. Tôi đề nghị tận dụng tối đa
chúng. Tôi chắc chắn rằng khi đêm xuống, ở đây sẽ rất lạnh, và mấy cái áo
jacket nỉ này sẽ không đủ ấm đâu.”