Và mũi tên chỉ xuống dưới ở giữa tấm bia mộ, giữa các từ, bắt đầu từ
phía trên với các từ P-S và kết thúc ở PRAE-CUM.
PRAE-CUM, tiếng La tinh có nghĩa là ‘cầu nguyện để đến'. PRIER EN
VENIR, tiếng Pháp có nghĩa là ‘cầu nguyện để đến'.
Anh mỉm cười và nói với những người khác suy nghĩ của mình. “Tu
viện trưởng Bigou là một người khôn ngoan, tôi sẵn sàng công nhận điều
đó.”
“Mũi tên trên tấm bia mộ đó,” Mark nói, “hẳn là phải rất quan trọng. Nó
nằm ở giữa, nơi dễ thấy nhất.”
Giờ đây các giác quan của Malone trở nên sắc bén, đầu óc anh tìm kiếm
cách hiểu các thông tin, và anh bắt đầu chú ý đến sàn nhà. Nhiều ô đá đã bị
mất, những gì còn lại nát bấy và hình thù nham nhở, nhưng anh vẫn nhìn ra
được khoảng sàn. Một loạt những ô vuông, bao bọc bởi một đường viền đá
hẹp, chạy từ phía trước về phía sau và từ trải sang phải.
Anh đếm. Trong một trong những ô vuông lớn có đường viền anh đếm
được bảy phiến đá ngang, chín phiến dọc. Anh đếm các phần khác. Đều
vậy hết. Và cứ thế mãi.
“Sàn nhà được xếp theo hai số bảy và chín,” anh nói với họ.
Mark và Henrik đi về phía ban thờ, cả họ cũng đang đếm. “Và có chín
phần từ cửa sau đến chỗ ban thờ,” Mark nói.
“Bảy ở chiều ngang,” Stephanie nói, cũng đã đi đến ô vuông lớn cuối
cùng gần một bức tường bao.
“Được rồi, có vẻ như là chúng ta đã đến đúng chỗ đấy,” Malone nói.
Anh lại nghĩ đến dòng chữ: Cầu nguyện để đến. Anh nhìn lên những từ
tiếng Pháp loang lổ trên tường, rồi nhìn xuống sàn nhà. Những con ong tiếp
tục bay vù vù gần ban thờ. “Mang đèn pin và máy phát điện vào đây đi.
Chúng ta cần phải nhìn rõ.”
“Tôi nghĩ là chúng ta cũng sẽ phải ở lại đây đêm nay đấy,” Cassiopeia
nói. “Nhà trọ gần đây nhất cách đây ba mươi dặm về phía Đông, ở Elne.
Chúng ta sẽ phải ở lại thôi.”
“Có đồ ăn không?” Malone hỏi.
“Có thể mua được,” cô nói. “Elne là một làng khá lớn. Chúng ta có thể