Nho (Bội văn vận phủ, Thiếu vị thông giám, Dân gian văn nghệ tuyển tập),
cũng như bằng tiếng Việt (các công trình của Trương Vĩnh Ký, Huỳnh Tịnh
Của, Nguyễn Văn Ngọc) và tiếng Pháp (các côg trình của Cô-xcanh
(Cosquin), Lăng-đờ (Landes), Xét-xbrông (Cesbron), Jê-ni-bren (Génibrel;
Duy-mu-chi-ê (Dumoutier)...).
Một trong những ưu điểm lớn của tác giả Kho tàng truyện cổ tích Việt-nam:
ông là người đầu tiên đã sắp xếp, sau văn bản của từng truyện, một loạt " dị
bản " , cũng như các mặt đối chiếu và điểm bổ sung, trích ra không chỉ từ
lĩnh vực truyện cổ Việt-nam, mà cả từ lĩnh vực ấy của nhiều tộc ở Cựu Thế
giới: Trung-hoa, Ấn-độ, Áp-ga-ni-xtăng (Afghanistan), châu Phi, Ma-đa-
gát-xca (Madagascar), Xi-xin (Cicile), Nga, Ả-rập (Arabie). Công việc này
nối dài những nghiên cứu của Cô-xcanh (Cosquin), của Prơ-di-luyt-xki
(Przyluski), v.v... về mối quan hệ bà con giữa các truyện ấy, về con đường
truyền bá các truyện ấy từ lục địa này qua lục địa kia, hay từ tiểu lục địa
này qua tiểu lục địa kia, lần đầu tiên được đem ra áp dụng vào truyện cổ
tích Việt-nam, và như thế là đã vượt qua giai đoạn phân tích chỉ liên quan
đến chủ đề, có thể nói là giai đoạn hình thái học. Công việc nghiên cứu đó,
về ngọn nguồn và gốc gác của truyện cổ sẽ rất có ích và có lẽ là cần thiết
nữa, để hiểu biết sự hình thành và phát triển của nền văn minh Việt-nam,
một nền văn minh có nhiều nguồn gốc bác tạp.
Trước phần thứ hai của tác phẩm, phần chứa văn bản các truyện xưa mà ta
vừa phân tích một cách tóm tắt, cả văn phong, việc sưu khảo tư liệu và cách
giới thiệu, còn có một phần mở đầu quan trọng mang tên Nghiên cứu
truyện cổ tích nói chung và truyện cổ tích Việt-nam, trong đó số trang dành
cho các nhận xét lý thuyết và tổng quát là rất kiềm chế, nếu ta so chúng với
những nhận xét đặc thù về bản chất, nguồn gốc và quá trình phát triển của
truyện cổ tích Việt-nam (1, tr.7 - 64).
Chương I luận về bản chất truyện cổ tích. Ở đây tác giả lần lượt đề cập đến