non nớt của nó. Trái lại, bà kia thì gượng nhẹ hơn. Vua đủ chứng cớ để thấy
rõ ai là mẹ thật của đứa bé sống.
Thứ hai là truyện phân xử một chiếc ô: một người đi đường tay cầm một
cái ô che nắng. Đi được một quãng, gặp một người thứ hai đi không, hắn
cho che chung ô. Được một chốc, người kia xin cầm lấy ô. Đến chỗ rẽ, chủ
ô đòi lại, thì người kia làm bộ ngạc nhiên nói ô này là của mình. Việc đưa
lên quan, quan không xử được. Đưa lên vua, vua sai chẻ đôi chiếc ô cho
mỗi người một nửa. Sau đó vua bí mật sai hai người hầu lén theo mỗi người
về nhà để nghe ngóng. Người hầu thứ nhất đi về kẻ lại rằng: "Lúc đến nhà,
vợ hắn chạy ra hỏi: - Sao chỉ còn có một nửa ô thôi? Hắn khóc lóc kể lại
chuyện bị cướp ô cho vợ nghe". Còn người hầu thứ hai về, kể: "Khi về đến
nhà vợ hắn hỏi: - Kìa sao lại nhặt được nửa cái ô ở đâu về thế? Hắn đáp: -
Tao chơi cho họ một vố và tao đã thắng được nửa cái ô..."
Vua lập tức cho đòi hai người kia đến, kể tội, và bắt người thứ hai phải đền
cho người thứ nhất cái ô mới [2] .
Trong Bao Công kỳ án cũng có truyện Cướp ô giống với truyện Khơ-me,
nhưng kết cục phân xử có những nét độc đáo:
Sau khi Bao Công hỏi dấu vết chiếc ô, cả hai người tranh giành ô đều nói,
vì ô là vật nhỏ mọn nên không có dấu vết. Bao Công cũng sai chẻ đôi chiếc
ô cho mỗi người một nửa, rồi cũng cho sai nha đi theo để dò la. Sai nha về
báo lại: một người ra khỏi công đường chửi quan là hồ đồ. Bao Công sai
gọi cả hai trở lại, kết cả hai vào tội chửi quan. Một người đáp: - "Con đâu
dám, chính nó chửi đại nhân, có dân phố chứng kiến". Bao Công cho người
đi điều tra, quả đúng như lời hắn nói. Lập tức ông can vặn hắn như sau: -
"Trong hai người, thế tất có một người oan nên oán trách ta, điều đó ta tha
thứ. Còn mày là đứa che nhờ ô của nó rồi cướp giật, nay được nửa chiếc ô