Sẵn có bút son trên bàn, anh viết vào tay cô gái hai câu:
Thử sinh duyên vị liễu;
Nguyện kết hậu sinh duyên [1] .
Viết đoạn, anh đặt xác cô xuống huyệt, lấp đất lại, lại sửa sang nền nhà thật
cẩn thận, nhặt từng hòn đất, sắp từng viên gạch, rồi chùi rửa cuốc thuổng
không để một vết tích gì khả nghi. Xong đâu đó anh lại lên giường nằm đợi
trời sáng.
Lại nói chuyện nhà phú ông sáng hôm sau thấy con gái mất hút, bèn cho
người đi khắp mọi ngả để tìm. Bên nhà trai nghe tin cũng cho người do la
khắp miền. Nhưng ngày một ngày hai vẫn không một manh mối, không
một tin tức gì mới mẻ. Phú ông đoán con gái mình vì không cam chịu ép
duyên nên đã liều thân hoại thể ở chỗ nào xa xôi. Mặt khác sợ bọn quan
nha lính tráng dựa dẫm vào việc này để đục khoét, nên ông cố ỉm đi không
dám trình báo. Cuối cùng, sau những ngày hối tiếc thở than của bà con thân
thích, sau những cuộc bàn tán xôn xao của xóm giềng, câu chuyện cô gái
mất tích cùng với thời gian xóa mờ dần trong mắt trong ký ức mọi người.
Về phần người học trò, sau khi bí mật chôn xác người yêu, phần vì thương
cảm quá độ, phần vì muốn tránh mặt vợ chồng phú ông, nên được ít lâu anh
thôi dạy. Phú ông cho là thầy đồ thất tình, cũng không nghi ngờ gì cả. Rời
nhà phú ông, anh đi thật xa, kiếm được một chỗ ngồi dạy khác, rồi cố nén
đau khổ, tự rèn luyện thành tài để đợi khoa thi. Sau mười lăm năm sôi kinh
nấu sử, sức học của anh uyên bác không ai bì kịp. Anh đi thi và đậu luôn
tiến sĩ. Những ngày vinh quy rộn ràng tấp nập đã qua, nhà vua bổ anh làm
quan ở một trấn gần kinh kỳ, bố mẹ cũng như hàng xóm mỗi lần gặp anh, ai