là một dị bản của truyện Con chim khách mầu nhiệm được. Đó là truyện
thấy trong Tả truyện
左 傳 và trong Đông Chu liệt quốc 東 周 列 國. Đại
khái là: Một người ở đất Trần-sương bắt được một con vật lạ, định đem
dâng vua Tần. Đi được nửa đường bỗng gặp hai đứa trẻ bảo: - "Con ấy gọi
là con vị, ở dưới đất nó hay ăn óc người chết". Lúc ấy con vị cũng bảo: -
"Hai đứa kia là trĩ tinh, một con trống, một con mái, ai bắt được con trống
làm nên nghiệp vương, bắt được con mái làm nên nghiệp bá". Nghe nói thế,
người kia liền bỏ con vị mà đuổi theo hai đứa trẻ. Nhưng chúng đã hóa làm
hai con chim trĩ mà bay đi mất. Tần Văn Công, sau khi nghe người kia
thuật lại câu chuyện, sai chép việc ấy vào sách. Đến đời Tần Mục Công, lại
có người ở Tần-sương chăng lưới bắt được con trĩ mái, tự nhiên chim hóa
ra con gà bằng đá kỳ lạ, liền đem dâng vua. Một viên quan tâu: - "Ấy, tức là
điềm bắt được con mái làm nên nghiệp bá đó!". Ở đây thay vào tình tiết "ăn
thịt" là tình tiết "bắt được", người bắt được cũng có số phận như người ăn
thịt. Chúng tôi cho rằng có thể từ Ấn-độ truyền vào, truyện đã được hoán
cải mạnh tay hơn, nhưng vẫn không mất những nét cơ bản: cặp chim lạ, ai
bắt được con trống có số phận làm vua, ai bắt được con mái có số phận bá
chủ (một loại vua đứng đầu nhóm vương quốc).
[36] Stith Thompson. Motif-index of Folk-literature, 6 quyển (1932-37).
[37] V.P. A-ni-kin (V.P. Anikine). Cổ tích dân gian Nga, Mát-xcơ-va, 1959,
dẫn trong Sáng tác dân gian là một loại hình nghệ thuật, của K. C. Đa-vle-
xtốp (K. C. Davlestov).
[38] Quý Tiễn Lâm
季 羡 林, nhà nghiên cứu tiếng Phạn của Trung-quốc
có cho biết các sử gia xưa của Trung-quốc, kể từ Trần Thọ
陳 壽 (233-297)
viết Tam quốc chí
三 國 志 cho đến các soạn giả Tấn sử 晉 史, Bắc triều sử
北 朝 史 đều sử dụng những yếu tố miêu tả này của văn học Phật giáo: hai
tay dài quá gối (Sthitanvanataja nupralambahun) và đôi tai dài và dày
(Pinayakarnah) làm công thức để miêu tả hình dáng một ông vua khác
thường. Chỉ bắt đầu từ đời Tùy (thế kỷ VI-VII), chúng mới biến khỏi
những tác phẩm lịch sử nhưng vẫn tiếp tục tồn tại trong truyền thống truyền
miệng và văn học tự sự, như là tiêu chí của một người đã được số phận
thích dấu (Theo B. Rip-tin (B. Ryftine), sách đã dẫn).