đông vô kể, do một viên tướng mặt đen râu xồm tên là Lồi hiện đang đóng
trên mấy ngọn đồi ở bên kia sông. Thấy tình thế đã trở nên nghiêm trọng,
tướng Việt lo lắng vì sức người sức mình cách nhau một trời một vực. Đoàn
tướng quân vò đầu suy nghĩ. Rồi đó người ta thấy quân lính Việt được lệnh
cắm trại rải rác suốt mấy dặm dài dọc theo bờ sông. Mỗi trại chia ra từng
nhóm quân, nhóm nào nhóm ấy cắm cờ la liệt. Để khoa trương thanh thế,
ban đêm mọi nơi thắp đèn đuốc sáng choang, lại đánh trống chiêng và hò
reo rầm trời. Ban ngày có một toán quân đã cắt đặt sẵn, vác gươm giáo
sáng quắc, nai nịt chỉnh tề đi quanh hòn núi nổi lên trên bờ sông[2].
*
* *
Bên Chăm thấy bên Việt án binh bất động lại thấy quân địch kéo qua núi
liên miên không ngớt, nghĩ tới oai hùng của những người đã chiến thắng
trăm vạn quân hùm beo Mông-cổ nên sinh khiếp sợ. Song vâng mệnh vua
đem đại quân ra giữ biên thùy, không lẽ chưa giao chiến đã vội rút lui. Sau
mấy ngày làm kế nghi binh, đoàn tướng quân cho quân mang thư mời
tướng Chăm ra trước trận để cùng thương lượng. Kết quả, các tướng lĩnh
hai bên đi đến mốt đính ước: "Trong một đêm hai bên đều khởi công, mỗi
bên đắp một bức thành cho suốt tới sáng, bên nào hơn thi thắng. Bên thua
lập tức lui binh nhượng đất, để khỏi giết hại sinh linh". Trong khi quân Đại-
việt còn đủng đỉnh nấu ăn coi bộ chưa nghĩ tới cuộc đấu sức đã bắt đâu, thì
quân Chăm đã vội vã kẻ đào người chuyển đất, đắp một bức thành suốt dọc
bờ sông vắt qua mấy ngọn đồi. Tướng Lồi đốc thúc ráo riết. Trời vừa tối