trở thành cổ tích hay thần thoại. Bởi xét về mặt nghệ thuật, về nội dung ý
nghĩa thì tuyệt không có gì khác giữa một truyền thuyết với một cổ tích hay
một thần thoại.
Văn học truyền miệng Việt-nam không có loại anh hùng ca như văn học
truyền miệng của đồng bào thiểu số, nhưng có một số truyền thuyết phần
nào có mang phong cách anh hùng ca. Theo tìm hiểu của chúng tôi thì có
thể ngờ rằng, ngày xưa chúng ta cũng có anh hùng ca với hình thức văn
vần. Nhưng có lẽ trải qua bao nhiêu biến thiên lịch sử, đặc biệt là những
biến thiên về ngôn ngữ văn tự, loại anh hùng ca đó mất dần đi, chỉ còn lại
đây đó những cốt truyện kể bằng văn xuôi mà ta gọi là truyền thuyết.
Truyện Thánh Gióng, truyện Khổng Lồ đúc chuông, truyện Bố Cái đại
vương, chẳng hạn, có thể nguyên xưa đều là những anh hùng ca. Nhưng đã
từ lâu, sự lãng quên, sự chuyển hóa của lịch sử làm cho những thiên anh
hùng ca đó chịu những số phận không chút giống nhau. Truyện Thánh
Gióng trở thành một thần thoại hay một thần tích; truyện Khổng Lồ trở
thành một cổ tích, còn truyện Bố Cái đại vương chẳng hạn thì được các nhà
chép sử gạn bớt những yếu tố hoang đường mà trở thành một sự tích lịch
sử. Cùng một hiện tượng "tha hóa" kiểu như thế, ngày nay, chúng ta còn có
thể lọc được trong thần tích của các làng một số truyền thuyết có dấu vết
của phong cách anh hùng ca như Sự tích thần làng Võng-la[8],Sự tích
Thánh Chèm, v.v...
Bởi vậy, chúng tôi cho rằng, nếu truyền thuyết có thể đứng được thành một
thể loại riêng biệt thì phải gồm những truyện xưa chuyên nói về anh hùng
lực sĩ trong thời khuyết sử và thời Bắc thuộc đã được kỳ vĩ hóa, thần thánh
hóa. Nhưng số lượng hiện nay biết được cũng không nhiều. Những truyện
anh hùng lực sĩ sáng tác trong thời phong kiến tự chủ đương nhiên không
thể liệt vào loại truyền thuyết này vì nói chung, trong quan niệm nghệ thuật
về con người của chúng, đã có sự khác biệt về chất. Con người ở đây không
còn có phong thái chất phác vô tư và khảng khái như các nhân vật anh hùng