164
ñổ tới thì họ sẽ không tắm". Chồng vội bảo vợ lên ngay. Vợ vừa lên thì nước
sông dâng cao làm trôi hòn ñá ngồi lúc nãy. Tuy vậy, vợ cũng không nguôi giận.
Dọc ñường vợ bảo: - "Nếu anh không nói, tôi bỏ về cho mà xem". Chồng không
ñáp. Trong khi ñó nghe hai con ngựa nói chuyện với nhau, chồng lại cười làm
cho vợ càng thêm giận dỗi. Đến nhà, vợ khóc lăn giữa ñất và gào lên: - "Mày
muốn tao chết, tao ñi dây!". Chồng dỗ dành: - "Nếu tôi nói thì tôi sẽ chết mất".
Vợ vẫn không nguôi giận, chồng ñịnh nói sự thật, mới ñi tìm một cái áo quan.
Nhưng ñúng vào lúc anh sắp nằm vào áo quan, bỗng nghe con chó nói: - "Chủ ta
sắp chết vì con mụ ấy". Gà trống ñáp: - "Kệ lão ấy. Nếu tôi mà là lão ấy thì tôi sẽ
tống tiễn vợ bằng một trận mưa gậy vào lưng, rồi tôi lấy vợ khác".
Nghe thế, anh chàng hiểu tiếng loài vật liền ngồi dậy cầm gậy phang cho vợ
một trận ñòn dữ dội rồi tống ra khỏi cửa. Anh ñi kiếm kho vàng dưới hòn ñá chỗ
hai con chuột nói lúc nãy, và từ ñấy anh giàu có ñến nỗi có nhiều người ñàn bà
chạy theo mình
1
.
Có khá nhiều truyện khác tương tự các truyện trên, nổi bật là tình tiết người
chồng biết tiếng thú vật nhưng nếu nói ra thì chết và người vợ không nén ñược
tò mò như: truyện Ha-ri-vam-xa của ñạo Bà-la-môn (vua Bra-ma-ñát-ta hiểu
tiếng loài vật không nói cho hoàng hậu biết); truyện mở ñầu bộ Nghìn lẻ một
ñêm (con lừa, con bò và người cày ruộng), truyện Bác-lam và Jô-da-phát; truyện
Nang Tang-trai của Thái-lan; hay truyện của người Lô-bi (Lobis) châu Phi (ở
ñây, người chồng biết tiếng loài vật vì thỏa mãn tính tò mò của vợ, nên bị chết
2
).
Còn có một loạt truyện khác cũng có nhân vật biết tiếng loài vật do ngẫu nhiên
ăn ñược một món ăn thiêng. Ví dụ truyện của các dân tộc ở Xcăng-ñi-na-vơ
(Scandinave) trong Et-ñát (Eddas) có nói ñến một nhân vật anh hùng là Xi-gua
giết một con rồng nấu tim ăn và uống máu của nó, liền ñó hiểu ñược những lời
trò chuyện giữa hai con quạ. Hoặc biết tiếng loài vật bằng con ñường tiếp thu
môn học về tiếng loài vật ở nhà trường. Sau ñây là một truyện của người Ma-rốc
(Maroc) Tiếng loài chim:
Một người lái buôn giàu có ở Phe-dơ (Phez) không con, nhờ một pháp sư cho
ăn một thứ quả loài cây lạ, người vợ liền có mang ñẻ ñược một con trai.
Ông ta cho con ñi học. Con lên mười ông mang ñến ñất Thánh, nhưng ñi qua
một thành phố Ai-cập, thấy có một trường học dạy tiếng chim, ông bèn ñể con
lại học với một số vàng, ñịnh lúc trở về sẽ lại ñón con về. Nhưng khi người bố
trở về thì lạc ñường, không ñón ñược. Mấy năm sau, ông mới lại ñi tìm thì con
mình ñã tinh thông tiếng chim, và ñang thay thầy giáo dạy tiếng chim ở trường.
Bố ñưa con ñi tàu về quê. Giữa ñường, thấy có ba con chim trò truyện với nhau,
1
Bô-trô Rút- xen (Botreau - Roussel). Bài ñã dẫn.
2
Xem thêm các dị bản truyện Cứu vật vật trả ơn, cứu nhân nhân trả oán số 48, tập II.