sẽ có gì đó vĩ đại xảy ra với chúng ta, điều gì đó sẽ thay đổi cuộc đời chúng
ta mãi mãi.
Một năm đó trôi qua, và vào cái ngày đã định, chẳng có gì vĩ đại xảy ra
hết. A. giải thích với D.: Dù sao đi nữa; điều quan trọng sẽ xảy ra vào năm
sau. Rồi năm thứ hai trôi qua, vẫn điều y như vậy xảy ra: chẳng có gì.
Nhưng A. và D. không nản lòng. Trong suốt những năm học trung học, họ
vẫn tiếp tục giữ kỷ niệm của ngày hôm ấy. Không có lễ nghi chào mừng gì
cả, chỉ có sự ghi nhận. Ví dụ, gặp nhau trên hành lang nhà trường và bảo:
thứ Bảy chính là ngày ấy đấy. Không phải vì họ vẫn chờ đợi điều kỳ diệu
xảy ra. Nhưng, kỳ cục hơn, sau nhiều năm cả hai người càng trở nên gắn bó
hơn với ký ức về lời tiên đoán.
Tương lai bất định, bí mật của những điều chưa xảy ra: anh nghiệm thấy
cả điều đó cũng được bảo quản trong ký ức. Và đôi khi anh thấy kinh ngạc
rằng bản thân lời tiên đoán mù quáng, trẻ con đã được nói ra hai mươi năm
trước, sự tiên niệm về điều vĩ đại chính là sự vĩ đại: trí óc anh trôi tuột vào
niềm hạnh phúc về những điều chưa biết. Với một thực tế đã xảy ra là nhiều
năm đã trôi qua. Và vẫn cứ tới mỗi cuối tháng Mười Một, anh lại thấy mình
nhớ về ngày hôm ấy.
* * *
Lời tiên tri. Khi là thật. Như trong Cassandra
, nói lên từ chiếc vỏ sò cô
độc của nàng. Như giọng của một phụ nữ.
Tương lai sa xuống hiện tại từ môi của nàng, điều nào cũng xảy ra chính
xác y như tiên đoán, và số phận của nàng là không bao giờ được ai tin.
Người đàn bà điên, con gái của Priam: “tiếng kêu của con chim báo điềm
gở” từ kẻ “… phát ra tiếng đau thương/ Buông ra nỗi kinh hoàng khi nàng
nhai lá nguyệt quế,/Và chẳng bao lâu nữa, như con nhân sư đen đúa,/Tru lên
trọn khúc ca kỳ bí.” (Cassandracủa Lycophron, bản dịch của Royston,
1806). Để nói về tương lai là việc phải dùng thứ ngôn ngữ lúc nào cũng ở
trước bản thân nó, ký thác những điều chưa từng xảy ra trong quá khứ, lên