tiền cho gái.” Tin đồn ấy có lẽ cũng đúng nửa phần. Bởi vì ông đã bị
Matsuno lôi cuốn.
Lúc nào đi Osaka ông cũng bắt chuyến đêm. Buổi sáng là đến nhà cô
ấy. Cả ngày hôm ấy phần lớn thời gian ông dạo phố cùng Matsuno và
Kiyoko. Chúng ta đi gần như hết thành phố Osaka: Shinsekai, thành Osaka,
Dotonbori, nhà ga Tenroku, phố Sennichimae.
Mỗi lần đến Osaka, ông đều nhận thấy thành phố ấy đang dần dần hồi
phục. Khuôn mặt mọi người tươi vui hơn, nhịp sống cũng năng động hơn.
Dù vậy, vẫn còn đó những tàn tích của chiến tranh. Những tòa nhà bị hư hại
vì không kích, vẫn còn các lều bán chợ trời trên những cánh đồng bị thiêu
rụi.
Hơn thế, trước nhà ga Osaka có khá nhiều thương binh. Người hỏng
mắt, người mất tay, người cụt chân, có người mất cả tay lẫn chân mặc áo
trắng của bệnh nhân, ngồi bên đường. Cảnh đó thậm chí còn có ở Tokyo.
Nhìn thấy vậy, ngực ông đau nhói. Họ vì đất nước mà mất đi một phần thân
thể, phải tiếp tục sống cuộc đời đau khổ kéo dài. Nhưng mặt khác, đường
phố ngày ngày đổi mới như muốn quên đi ký ức về chiến tranh. Khoảng
cách đó thật đáng sợ.
Mỗi lần đi ngang các thương binh, Matsuno đều đưa tiền cho Kiyoko,
bảo cô bé bỏ vào thùng quyên góp.
Chúng ta thường ăn cơm trưa tại quán. Ông kể chuyện về thời còn là
học viên phi hành dự bị. Thầy Miyabe là một giáo quan tốt như thế nào.
Matsuno khi vui vẻ, khi đượm buồn khi nghe chuyện của chồng.
Matsuno hầu như không kể gì về Miyabe, chỉ duy nhất một lần cô ấy
kể về chuyện kết hôn. Cô ấy kết duyên với Miyabe qua việc xem mắt. Khi
Miyabe trở về từ Trung Quốc năm 1941 và tạm dừng ở phi đội của hạm
Yokohama, đã được ông chủ quán nơi đó yêu mến và gả cho cô con gái duy
nhất của mình. Có lẽ ông ấy nhìn thoáng qua đã thấu anh Miyabe là người
thích hợp với con gái mình rồi. Ông mất trong trận không kích tại
Yokohama vào năm 1945. Anh Miyabe và Matsuno đã tổ chức lễ cưới mà
chưa từng nói chuyện với nhau câu nào.