Đền thờ Vũ Hầu này, các thi nhân nổi tiếng như Đỗ Phủ, Lý Thương Ẩn,
Lục Du đã từng đến đó chiêm ngưỡng, lại còn viết không ít thơ ca tưởng
nhớ Gia Cát Lượng. Bài thơ “Thừa tướng nước Thục” được lưu truyền rất
rộng, nhất là câu “KỳSơn giữa trận từ trần, kháchanh hùng để tần ngần lệ
rơi”, đã là danh ngôn bất hủ lưu truyền hàng nghìn năm nay.
Ở đền thờ Vũ Hầu tại Thành Đô, còn có rất nhiều văn vật kỷ niệm Gia Cát
Lượng trong đó có tấm bia Gia Cát Vũ Hầu rất có giá trị. Đấy là tấm bia mà
nhà chính trị nổi tiếng đời Đường là Bùi Độ viết ra, nhà thư pháp nổi tiếng
Liễu Công Sước (anh của Liễu Công Quyền) trực tiếp viết chữ. Tấm bia đó
đã khen Gia Cát Lượng có tài khai quốc trị dân, sánh được với những danh
thần trong lịch sử như Khương Thái Công, Y Doãn, Quản Trọng, Tiêu Hà.
Cũng thừa nhận thành tựu quân sự của ông đã bắc phạt Trung Nguyên,
khiến Tào Ngụy phải khiếp sợ. Đặc biệt cũng tán dương Gia Cát Lượng
quyền uy nghiêng một nước lại có phẩm đức rất là tiết tháo dẫu công cao
không lấn át chúa, biểu thị đầy đủ cách nhìn của một nhân vật chính trị đời
sau, sự tôn kính và nhớ tiếc Gia Cát Lượng.
Trong những văn vật còn bảo tồn được,rất hấp dẫn sự chú ý của mọi người
là ba mặt trống đồng của ‘‘trống Gia Cát”, trong đó có một chiếc đúc trước
đời Đường, hai chiếc khác nhỏ hơn là sản phẩm của đời Minh, Thanh.
Trống đồng đã có từ thời Xuân Thu, lưu hành trong dân tộc thiểu số vùng
tây nam, lúc đầu dùng để đun nấu, về sau mới dần dần biến thành nhạc khí,
được sử dụng khi cúng tế hội hè hoặc khi có chiến tranh, đời sau trống đồng
được gọi là “Trống Gia Cát”, cơ sỏ chủ yếu dựa vào một truyền thuyết: khi
Gia Cát Lượng viễn chinh Nam Trung, chế ra trống đồng này, ban ngày để
thổi cơm, ban đêm nếu có tình huống dùng để gõ lên báo động. Truyền
thuyết này vẫn đượclưu truyền rộng ở vùng Vân Nam, Quý Châu, Tứ
Xuyên có rất nhiều người cho rằng Trống Gia Cát do Gia Cát Lượng phát
minh ra.
Cũng giống như chúng ta qui nhiều phát minh ngày xưa vào công lao của
Hoàng đế trong truyền thuyết, những truyền thuyết về Gia Cát Lượng ở
vùng tây nam đã thể hiện đầy đủ sự nhớ tiếc vô hạn của người vùng ấy đối
với công lao của Gia Cát Lượng.