Lượng mà sau này được nhắc đến theo truyền thuyết, ông ta lấy thái độ bao
dung rộng lớn mà tận lực thu thập.
Gia Cát Lượng mất đã nhiều năm, vào năm Thái Thủy thứ 10 đời Tấn Vũ
đế (năm 274 sau Công Nguyên), Trần Thọ lại biên tập cuốn “Gia Cát thị
tập”, toàn bộ gồm 24 thiên, mục lục và lá thư dâng sách của Trần Thọ thấy
ghi ở cuốn “Thục chí”.
Trần Thọ là cựu thần Thục Hán, cũng là tác giả “Tam quốc chí”, cách thời
đại Gia Cát Lượng không xa, bởi thế cuốn “Gia Cát thị tập” do ông biên tập
lại, tuy có nhiều người cho rằng không phải nguyên tác, song chí ít cũng đã
được lưu lại những trước tác đích xác là của Gia Cát Lượng.
Trong cuốn “Tùy thư” và “Đường thư”, đều có ghi chép những tác phẩm
của Gia Cát Lượng, như “Binh pháp”, “Luận tiền hán sự”, “Hán thư âm”...
Trong đó một số đã thất lạc, song những cuốn còn lại cũng khó phán đoán
là do Gia Cát Lượng viết. Trong những thư viện công hoặc riêng đời Tống,
Nguyên những ghi chép có liên quan đến Gia Cát Lượng rất nhiều, song
phần lớn do người đời sau mượn cớ viết ra.
Trong số đó nổi tiếng nhất là cuốn “Gia Cát Vũ Hầu văn tập” do Trương
Chú đời Thanh biên soạn.
Mục lục cuốn “Gia Cát thị tập” của Trần Thọ có nhắc đến 24 thiên sách:
Khai phủ tác mục, Quyền chế, Nam chinh, Bắc xuất, Kế toán, Huấn lệ,
Tổng yêu 1, Tổng yêu 2, Tạp ngôn 1, Tạp ngôn 2, Quí hoà, Binh yến,
Truyền vận, Thư gửi Tôn Quyền, Thư gửi Gia Cát Cẩn, Thư gửi Mạnh Đạt,
Chuyện Lý Bình, Pháp kiểm 1, Pháp kiểm 2, Khoa lệnh 1, Khoa lệnh 2,
Quân lệnh 1, Quân lệnh 2, Quân lệnh 3.
Cộng tất cả là 24 thiên sách, gồm 10 vạn 4 nghìn 1 trăm 12 chữ. Cứ theo
khảo xét mà Trương Chú đưa ra, trong thư dâng sách của Trần Thọ, 24
thiên ghi ở tổng mục, trong đó có chiếu, biểu, sớ, nghị, thư, lời chỉ bảo, lời
răn, sắc lệnh, luận văn ghi chép, văn bia, ấn triện, các loại này đều được ghi
lại theo một thời điểm, mà không lấy văn thể để biên soạn, cho nên cuốn
Gia Cát Vũ Hầu tập hiện còn, về phần xếp sắp đề mục có những bất đồng
rất lớn.