Điển Cương tuốt kiếm giơ lên mà rằng: “Chém rồng đánh hổ, chỉ là chuyện
nhỏ, thần xông pha nghìn dặm đổ máu lập công, lại không được ăn đào tiên,
thực là sỉ nhục, chẳng khác gì chuyện hai vua Tề, Lỗ hội yến, khiến cho vạn
đại còn đàm tiếu, còn mặt mũi nào mà đứng giữa triều đình”. Nói rồi quay
kiếm tự đâm mà chết.
Công Tôn Tiết nhìn thấy thất kinh mà rằng: “Thần công lao bé nhỏ mà cướp
lấy phần đào, Điền tướng quân công rất lớn lại không được ăn, thần không
nhường phần đào thực chẳng phải kẻ sĩ liêm khiết, thấy người ta chết mà
không dám theo thật chẳng phải hành động của kẻ võ dũng”. Nói rồi, cũng
tự đâm mà chết.
Cổ Dã vội la lớn rằng: “Ba người chúng thần tình như cốt nhục, thề cùng
sinh tử, hai người đã chết, thần đâu dám ham sống chẳng đành lòng vậy!”
cũng lại tự đâm mà chết.
Tề Cảnh Công thấy ba người cùng biểu lộ chí khí của kẻ hào kiệt bèn lấy lễ
trọng hậu táng; đấy là câu chuyện “Nhị đào sát Tam sĩ” vẫn còn lưu truyền.
Các bậc phụ lão nước Tề đôi với ba kẻ hào kiệt, cùng cảm thương người giữ
khí tiết mà ngộ nạn, đã làm ra khúc ca dao bi ai “Lương Phụ Ngâm” một
mặt khác cũng nói mát Án Tử người vẫn nổi danh là hiền tướng, đã lấy mẹo
gian bất nhân hại người vô tội.
Có một số nhà sử học cho rằng Gia Cát Lượng thích đọc Lương Phụ Ngâm
chỉ là do nhớ nhung quê hương nên thường ngâm ngợi khúc ca dao quê
hương mà thôi, chẳng có nội dung gì khác, thậm chí có người cho rằng
Lương Phụ Ngâm là khúc ca dao thông tục của nước Tề. Gia Cát Lượng sở
dĩ ngâm ngợi chẳng phải bởi cái tiêu đề “Nhị đào sát Tam sĩ”. Tuy nhiên
các sử liệu cũng không đủ bằng chứng để cho rằng Gia Cát Lượng thích đọc
Lương Phụ Ngâm bởi bài ca dao ấy nói mát Án Tử, song cá tính đặc dị độc
hành của Gia Cát Lượng thời trẻ, qua những dòng ghi chép trân trọng của
Trần Thọ cho thấy không chỉ là tượng trưng cho nỗi nhớ quê hương mà
thôi.
Án Tử, tên gốc là Án Anh là một tướng quốc nổi tiếng trong lịch sử, từng
nhiều lần bằng vào trí tuệ của mình, cứu vớt quốc gia qua những nguy nan.
Ông là người chính trực, nổi danh bởi những lời can gián, rất được vua Tề