Kertész Imre và sự khắc họa nỗi đau Holocaust
Thế chiến thứ hai không chỉ là cuộc chiến thảm khốc nhất trong lịch sử
nhân loại với tổng số nạn nhân lên tới chừng 62 triệu người, mà còn để lại
những biểu tượng kinh hoàng của sự chết chóc, hủy diệt, sự sụp đổ của nền
văn minh và văn hóa châu Âu hiện đại, như holocaust và Auschwitz, mà ý
nghĩa và những bài học của chúng, cho đến nay, vẫn còn nguyên tính thời
sự.
Để hiểu được quá trình hình thành của những khái niệm được coi là
“sự nhục nhã và tàn phá không bút nào tả xiết của nhận loại” này, cần
ngược dòng thời gian trở về những năm đầu thập niên 30 của thế kỷ XX.
Năm 1933, ngay từ khi lên năm quyền, Adolf Hitler, lãnh tụ của Đảng
Công nhân Đức Quốc gia Xã hội Chủ nghĩa (gọi tắt là Đức quốc xã), tuyên
bố rằng ông ta tìm ra một lý tưởng mới cho Đức: một dân tộc “thượng đẳng”
không thể chấp nhận sự tồn tại của sắc dân “hạ đẳng” và “đáng ghét” như
Do Thái, Digan, Nga, Ba Lan và nhiều chủng tộc Xlavơ khác hay những
người khuyết tật, bị bệnh tâm thần, đồng tính luyến ái, những nhóm phản
kháng chính trị và tôn giáo (những người cộng sản, xã hội hoặc Nhân chứng
Jehova…).
Đồng thời, tham vọng bành trướng vô độ để giành “không gian sinh
tồn” cho nước Đức Quốc xã cũng đã khiến việc tàn sát hàng loạt người dân
tại những vùng bị Đức chiếm đóng trở thành một nền tảng của ý thức hệ
phát xít.
Để thực hiện ý tưởng diệt chủng ấy, Đế chế thứ Ba đã vận động cả một
bộ máy hành chính, tuyên truyền và quân sự khổng lồ, khởi đầu từ trước Thế
chiến thứ hai. Ngay từ đầu những năm 30, người Do Thái đã dần dần bị
phân biệt đối xử, bị cấm đoán, loại trừ khỏi đời sống kinh tế, chính trị, văn
hóa và xã hội, giới trí thức Do Thái bị xua đuổi và trục xuất hàng loạt khỏi
nước Đức.