nó va vào ghế, vào chân hành khách. Nó vập tím cả đầu gối, nhưng cảm
giác đau ở đầu gối cũng không át nổi cái đau cũ.
Bố bảo nó ngồi im và nhất thiết không được dụi mắt, như thế vụn than
sẽ tự nó ra. Nhưng vụn than không ra. Pêchya lại nắm tay ra sức dụi mắt.
Đau không thể tưởng tượng được. Tuyệt vọng, Pêchya rên rỉ, la hét, dậm
gót giày xuống sàn. Hai tay run run, bố thử lật mí mắt Pêchya lên và dùng
đầu chiếc khăn tay thử lấy vụn than ra. Pêchya vùng ra khỏi tay bố. Chốc
chốc nó lại chạy vào phòng rửa, vốc nước ấm vào lòng bàn tay, nhúng lên
mắt bị viêm tấy vào nước. Không ăn thua gì. Còn tệ hại hơn cả đau răng.
Đôi lúc cơn đau giảm bớt trong giây lát, khi ấy dưới ánh nắng trưa
chói chang của nước Y, qua cửa sổ, Pêchya nhìn thấy những ngọn đồi khô
héo, bụi trắng xóa trên tường, những thanh chắn đường và những nhà chòi
nhỏ của người gác đường, xung quanh nhà có rào làm bằng những thanh tà
vẹt cũ, những cây hướng dương, cây cối xay và những con lợn bẩn thỉu.
Nếu không có những khu rừng thông Ý xinh đẹp, cành màu hồng da cam
xòe về mọi phía và lá gần như đen thì có thể ngỡ rằng xe lửa đi về Mirgôrốt
chứ không phải đi Rôm.
Tất cả những cảnh đó thoắt hiện rồi lại thoắt biến trong mắt, chỉ còn
lại một ấn tượng, một cảnh luôn luôn không thay đổi: sân ga Naplơ, đám
người đi tiễn, người đàn bà để tang và cô bé có bím tóc màu hạt dẻ đeo
băng tang. Cô bé luôn luôn nhìn Pêchya một cách nghiêm nghị, như dò hỏi,
hình ảnh cô không hề biến động và không thể xua đuổi được, như mảnh
vụn than đã bay vào mắt Pêchya.
Nhưng mọi cái trên đời đều phải có lúc chấm dứt. Những đau khổ của
Pêchya cũng đã chấm dứt. Ngồi ở góc toa xe có một bà già người Ý, cái cổ
nhăn nheo đeo cây thập ác bằng san hô. Bà mang theo chiếc làn, ở đó có
mấy cái đầu vịt ló ra và suốt dọc đường bà sốt sắng đọc kinh cầu nguyện.
Nhưng bà thấy hết mọi việc xảy ra trong xe. Lúc Pêchya dậm chân chạy
qua chỗ bà đến lần thứ mười, vào phòng rửa để rửa mắt thì bà bỗng đưa đôi
tay gân guốc ra chộp lấy nó, kéo nó ngồi xuống ghế bên cạnh bà, hai tay