số lối ăn mặc, đội một thứ mũ, và có một bộ râu cắt tỉa đặc biệt; chỉ vậy
thôi. Họ chỉ có một ít ký ức về những việc tổ tiên họ từng làm ở châu Phi.
Họ chỉ có thói quen về quyền lực, mà không đủ nghị lực hay học thức để
quay lại được quyền lực đó. Quyền lực của những người A rập – khá lớn
khi tôi còn là một đứa trẻ - chỉ là vấn đề về tập quán. Nó có thể bị thổi bay
vèo bất cứ lúc nào. Thế giới vẫn chỉ là thế giới.
Tôi lo ngại giùm người A rập. Tôi cũng lo lắng cho chúng tôi. Bởi vì,
khi có quyền, thì chẳng có gì khác biệt lớn lao nào giữa họ và chúng tôi hết.
Cả hai đều là những nhóm nhỏ sống dưới lá cờ của người châu Âu và cùng
ở bên rìa lục địa. Trong ngôi nàh gia đình chúng tôi, khi còn là một đứa trẻ,
tôi chưa bao giờ nghe thấy một cuộc tranh luận nào về tương lai của chúng
tôi hoặc tương lai của bờ biển. Ai cũng cho rằng mọi chuyện sẽ tiếp diễn,
rằng những cưới xin có thể tiếp tục được tổ chức giữa những người có sự
đồng thuận với nhau, rằng thương mại buôn bán có thể tiếp tục, rằng châu
Phi có thể cho chúng tôi những thứ nó từng cho.
Các chị em tôilấy chồng theo lối truyền thống, nghĩa là, cả tôi nữa,
cũng có thể lấy vợ khi đủ tuổi và nới rộng cuộc sống gia đình chúng tôi.
Nhưng lúc còn nhỏ, khi còn học ở trường, tôi đã nhận ra rằng cách sống
của chúng tôi quá cổ lỗ và dường như đã đến hồi cáo chung.
Những thứ nhỏ bé có thể mang đến chúng tôi nhiều cách suy nghĩ
mới, chẳng hạn những bức tem thư. Chính quyền Anh đã cho chúng tôi
nhiều loại tem đẹp. Những lọai tem đó miêu tả cảnh sắc và đồ vật của địa
phương; một cái có tên là "thuyền buồm A rập". Trong những con tem có
hình chiếc thuyền đó, có cái gì kỳ lạ khiến một người nước ngoài từng nói
"Đó là điều nổi bật nhất ở vùng này". Không có con tem về thuyền buồm
ấy có lẽ tôi đã chẳng mảy may quan tâm đến những chiếc thuyền. Tôi học
cách quan sát chúng. Mỗi khi thấy chúng chen chúc nhau ở ven bờ nước tôi
nghĩ chúng như là cái gì đó thật thân thiết với vùng chúng tôi, gần gũi, cái
gì đó người nước ngoài có thể nhận ra, cái gì đo không được hiện đại cho