lắm, và chắc chắn chẳng hề giống với những tàu hàng và tàu khách cập vào
những cầu cảng hiện đại của chúng tôi.
Vậy là từ khi còn bé tôi đã phát triển cho mình thói quen nhìn ngắm,
tự gắn mình vào khung cảnh thân quen và thử nhận ra nó từ một khoảng
cách nào đó. Chính từ thói quen hay nhìn ngắm này mà tôi có ý nghĩ rằng
với tư cách là một cộng đồng chúng tôi đã tụi lùi về sau nhiều quá. Và đó là
khởi đầu cho tình trạng bất an của tôi.
Tôi thường nghĩ về cảm giác bất an đó như là một điểm yếu, một điểm
kém cỏi trong tính tình của tôi, và tôi có thể hổ thẹn nếu ai đó phát hiện ra
điều này. Tôi giữ cho riêng mình những ý nghĩ về tương lai, và thế là đủ để
thoải mái sống trong nhà chúng tôi, nơi, như tôi đã từng nói, không bao giờ
có cái gì đó tương tự một cuộc tranh luận chính trị. Gia đình tôi không có
người điên. Bố tôi và anh em ông là thương gia, buôn bán; theo cách của
riêng mình họ cố theo kịp thời đại. Họ có thể điều chỉnh được hoàn cảnh;
họ chấp nhận rủi ro và đôi khi họ có thể trở nên rất cục cằn. Nhưng họ đã đi
sâu vào cuộc đời mình đến nỗi kt nào bước lui và nhìn ngắm lại bản chất
cuộc đời nó. Họ làm điều họ phải làm. Khi mọi chuyện trở nên sai trái họ
có sự an ủi của tôn giáo. Chập nhận số phận không chỉ đơn thuần là sự sẵn
sàng, đó là một lòng tin trầm tĩnh và sâu sắc về sự phù phiếm của đời
người.
Tôi không bao giờ có thể lên cao đến thế. Sự bi quan của tôi, sự bất an
của tôi, là một chuyện thuộc trần thế nhiều hơn. Tôi không hề có cảm giác
tôn giáo của gia đình mình. Sự bất an đó là do tôi thiếu một tôn giáo đích
thực, và cũng giống như một đổi thay nhỏ về sự bi quan cao cả của lòng tin
chúng ta, sự bi quan dẫn con người đến những day dứt. Đó là cái giá dành
cho thái độ duy vật của tôi, sự tìm kiếm của tôi để chiếm lĩnh được trạng
thái trung hoà, giữa sự thẩm thấu vào cuộc sống và bay lơ lửng phía trên
mặt đất.