Tiếng hát đã tắt, chỉ còn nghe thấy tiếng bầy ngựa thở dài, buồn nhớ
cảnh tự do phóng khoáng của thảo nguyên, tiếng đêm thu đang chầm chậm
lan tới từ đồng nội không gì ngăn cản được. Và trái tim thì cứ lớn mãi lên,
như muốn vỡ tung ra vì tràn trề những nguồn cảm xúc phi thường, vì tình
yêu vĩ đại và thầm lặng đối với con người, với trái đất.
Với tôi, anh chàng Cossack nhỏ bé và như được đúc bằng đồng kia
không phải một con người bình thường, anh là một nhân vật siêu quần – một
nhân vật thần thoại, tốt đẹp hơn, cao thượng hơn tất cả mọi người. Tôi
không thể nào nói chuyện được với anh, khi anh hỏi tôi điều gì, tôi sung
sướng mỉm cười và lúng túng lặng yên. Tôi sẵn sàng nín thinh và ngoan
ngoãn như một con cún nhỏ đi theo anh chỉ cốt để trông thấy anh nhiều hơn
và nghe anh hát.
Có lần, tôi thấy anh đứng trong xó chuồng ngựa, đưa tay lên ngắm
nghía chiếc nhẫn trơn bằng bạc trên ngón tay. Đôi môi xinh đẹp của anh mấp
máy, bộ ria mép ngắn hoe đỏ rung rung, khuôn mặt có vẻ buồn rầu, bực bội.
Một tối nọ, tôi xách lồng chim vào một quán ăn ở quảng trường
Sennaya cũ. Người chủ quán vốn là một tay thích chơi loại chim hót và
thường mua chim của tôi.
Anh Cossack ngồi trong góc quán, cạnh quầy đồ ăn, giữa lò sưởi và
bức tường. Ngồi cạnh anh là một người đàn bà đẫy đà, to gần gấp đôi anh.
Khuôn mặt tròn trĩnh của bà ta nhẵn bóng như miếng da dê thuộc. Bà nhìn
anh bằng cặp mắt âu yếm hơi pha chút lo âu của người mẹ. Anh say mèm,
đôi chân duỗi ra kéo lê trên sàn và có lẽ chạm mạnh vào chân người đàn bà
nên bà ta giật mình, nhăn mặt và nhẹ nhàng nhắc:
- Đừng có vớ vẩn…
Anh Cossack cố nhướn lông mày nhưng chúng lại uể oải hạ xuống.
Anh nóng quá, cởi cả cúc áo khoác lẫn cúc áo sơ mi, để hở cổ. Người đàn bà
tụt khăn trùm đầu xuống vai rồi đặt hai cánh tay trắng trẻo, khỏe mạnh lên
bàn, những ngón tay cấu vào nhau đỏ cả lên. Tôi càng nhìn họ kĩ bao nhiêu
thì lại càng thấy họ giống đứa con có lỗi và người mẹ hiền từ bấy nhiêu.