Nói mệt, cậu uống nốt chỗ rượu vodka, rồi giống như con chim, dùng
một mắt nhòm vào cái bình trống rỗng, im lặng hút thêm một điếu thuốc và
phả khói qua bộ ria mép.
“Dù có cố sức đến đâu, có hi vọng vào cái gì đi nữa thì cũng chẳng ai
thoát khỏi chiếc quan tài và khu nghĩa địa đâu!” Bác thợ nề Pyotr, một người
khác hẳn cậu Yaakov, cũng thường nói thế. Tôi biết bao nhiêu câu cách ngôn
tương tự như vậy rồi!
Tôi không muốn hỏi thêm cậu điều gì nữa. Ở bên cậu, tôi cảm thấy
buồn rầu và thương xót cậu. Tôi nhớ lại bài hát sôi nổi và tiếng đàn ghi ta
nhen lên niềm vui trong một nỗi buồn dịu dàng. Tôi cũng không quên anh
Tsiganok vui tính, và khi nhìn thân hình ủ rũ của cậu Yaakov, tôi chợt nghĩ:
“Liệu cậu còn nhớ vụ cây thánh giá đè chết anh Tsiganok không?”
Tôi không muốn hỏi cậu điều đó.
Tôi nhìn xuống dưới khe vực tràn đầy bóng tối ẩm ướt của tháng Tám.
Từ dưới khe bốc lên mùi táo và mùi dưa bở. Con đường hẹp dẫn vào thành
phố đã rực ánh đèn. Những cảnh đó thật quen thuộc. Vào giờ này chuyến tàu
thủy đi Rybinsk và đi Perm sắp kéo còi…
- Đến giờ phải đi rồi! – Cậu nói.
Ra cửa quán ăn, bắt tay tôi, cậu khuyên với vẻ bông đùa:
- Cháu đừng buồn, hình như cháu buồn thì phải? Vui lên chứ! Cháu hãy
còn trẻ. Cái chính cháu nên nhớ là “số phận không cản trở được niềm vui”!
Thôi, tạm biệt, cậu phải đến nhà thờ đây!
Người cậu vui tính đi khuất, tôi càng thêm bối rối vì những lời của cậu.
Tôi ngược về hướng thành phố, ra phía cánh đồng. Trăng rằm tròn vành
vạnh, trên trời, những đám mây nặng nề trôi, bóng đen của chúng xóa sạch
bóng tôi trên mặt đất. Tôi đi tránh thành phố bằng đường ruộng, ra tới bờ
dốc trên sông Volga rồi nằm dài trên bãi cỏ đầy bụi, nhìn rất lâu sang bên kia
sông, sang cánh đồng cỏ và mảnh đất bất động ấy. Những bóng mây chậm
chạp kéo qua sông Volga; sau khi hòa lẫn vào cánh đồng cỏ, chúng như