“Vào xe đi,” cha tôi nói, đẩy chúng tôi về phía lề đường. “Chúng ta đã
hết thời gian rồi.”
Từ thời điểm đó, Cha ngồi im thin thít.
“Đây không phải là nơi để nói chuyện,” ông nói., liếc ra sau nhìn chúng
tôi. Ông đã hứa cho người lái xe thêm 10 bảng nếu ông ta đưa chúng tôi đến
viện bảo tàng dưới 5’, và người lái xe đang cố hết sức mình.
“Cha,” tôi ướm lời, “những người ở bờ sông đó...”
“Và cái người kia nữa, Amos ấy,” Sadie nói. “Họ có phải là cảnh sát Ai
Cập hay gì gì đó không?”
“Nghe này, cả hai đứa,” Cha nói, “Cha sẽ cần đến sự giúp đỡ của cả hai
đứa tối này. Cha biết việc đó khó khăn, nhưng hai con phải kiên nhẫn. Cha
sẽ giải thích mọi thứ, cha hứa, sau khi chúng ta đến bảo tàn. Cha sẽ làm cho
mọi thứ lại trở nên đúng đắn.”
“Ý cha là gì?” Sadie khăng khăng hỏi. “Làm cái gì đúng?”
Nét mặt Cha còn hơn cả buồn bã. Trông gần như là mặc cảm tội lỗi. Với
cơn ớn lạnh chạy dọc sống lưng, tôi nghĩ về những gì Sadie đã nói: việc ông
bà đổ lỗi cho ông về cái chết của Mẹ. Đó không thể là điều mà ông đang nói
đến, đúng không nhỉ?”
Xe taxi quẹo vào đường Great Russell và bánh xe kêu rít lên khi ngừng
lại phía trước cổng chính của bảo tàng.
“Cứ làm theo chỉ dẫn của cha,” Cha bảo chúng tôi. “Khi chúng ta gặp
người phụ trách bảo tàng, hãy cư xử bình thường nhé.”
tôi đang nghĩ Sadie chẳng bao giờ cư xử bình thường cả, nhưng tôi quyết
định không nói gì.
Chúng tôi ra khỏi xe. Tôi lấy hành lý trong khi Cha trả cho người lái xe
một nắm tiền lớn. Rồi ông đã làm một việc kỳ lạ. Ông ném một nắm các vật
nhỏ vào phía ghế sau - chúng trông giống những viên đá, nhưng trời quá tôi