niệm loạn tưởng, cùng biếng lười ngủ nghỉ, và điều hòa thân thể, huyết khí
lưu thông, tiêu hóa dễ dàng.
10. Tinh, tấn, niệm, định, huệ. Người tu hành có năm đức nầy thời vững
chắc trên đường đạo như cây có rễ nên gọi là ngũ căn (cội rễ). Nếu tất cả
cảnh duyên không thể khuấy rối làm lay động được, thời năm đức trên gọi
là ngũ lực (sức mạnh). Thất Bồ Đề Phần cũng gọi là thất giác chỉ (7 đức
giác ngộ) là Trạch pháp, Niệm, Tinh tấn, Hỷ, Khinh an, Định, và Xả. Bát
Thánh Đạo Phần là Chánh kiến, Chánh tư duy, Chánh ngữ, Chánh nghiệp,
Chánh mạng, Chánh tinh tấn, Chánh niệm, và Chánh định. Trong cõi Ta Bà
nầy, những loài chim nhiếp thuộc vào súc sanh đạo, một ác đạo trong lục
đạo, do ác nghiệp tội khiên mà chiêu cảm ra khổ báo ấy. Chim bên Cực
Lạc thời khác hẳn, không phải là giống vật do tội báo cảm vời sanh ra, mà
do thần lực của đức A Di Đà biến hóa ra để làm cho pháp âm được lưu
truyền khắp trong nước.
11. Đoạn nầy là đức Phật tự định danh nghĩa của ba đức A Di Đà, vì có hai
điều vô lượng: vô lượng quang, vô lượng thọ, nên đức Phật bên nước Cực
Lạc hiệu là A Di Đà.
12. A bệ bạt trí (Phạn âm), Hán dịch là bất thối chuyẻn, vào bậc này thời
một mực đi trên đường Thánh thẳng đến thành Phật, không còn bị thối sụt
xuống phàm phu hay tiểu thừa nữa. Tất cả mọi người được sanh về cõi
Cực Lạc đều là bậc bất thối cả, trong hàng bất thối lại có vô số bậc nhất
sanh bổ xứ Bồ Tát (vì Bồ Tát chỉ còn là Bồ Tát trong một đời hiện tại, mãn
đời hiên tại thời thàn Phật, như hiện nay đức Di Lặc Bồ Tát ở cung trời Đâu
Suất nội viện là bậc nhất sanh bổ xứ Bồ Tát vậy.) Các bậc thượng thiện
nhân là chỉ các bậc nhất sanh bổ xứ Bồ Tát.
13. Cõi Cực Lạc thù thắng trang nghiêm, phải có nhiều căn lành phước đức
mới được sanh về đó. Niệm Phật được nhất tâm bất loạn thời là thành tựu
căn lành phước đức rất lớn, đến khi lâm chung đức Phật A Di Đà cùng