Ví dụ:
Nguyên tắc 1: Doanh thu thuế không phải là lợi ích thực, và giảm doanh
thu thuế không phải là lợi ích thực. Ngài Dennis ước tính rằng nếu ma túy
được hợp pháp hóa và bị đánh thuế, chính phủ có thể kiếm được ít nhất là
12,5 tỉ đô-la doanh thu mỗi năm, và ông ta tính toán rằng doanh thu đó
cũng tương đương như lợi ích của việc hợp pháp hóa. Nhưng doanh thu
thuế thực chất chỉ là chuyển tiền từ túi người này vào túi người khác. Xét từ
quan điểm của toàn xã hội – quan điểm mà phân tích chi phí - lợi ích đòi
hỏi – chúng chẳng có lợi cũng chẳng có hại. Sẽ chẳng ích gì khi tính toán
chúng, và chúng không bao giờ nên bị trừ hay cộng vào bất cứ bên nào của
bảng kế toán.
Nếu doanh thu thuế đại diện cho lợi ích thực của xã hội, thì nó sẽ theo
đuổi con đường đến với sự giàu có để cho chính phủ đánh thuế mỗi hoạt
động ở mức cao nhất có thể. Sau khi doanh thu được phân phối lại, nó có
thể được đánh thuế một lần nữa để vẫn đem lại nhiều của cải hơn nữa.
Không ai từng đóng thuế sẽ gặp khó khăn trong việc moi móc bất cập trong
chương trình này: Bất cứ thứ gì nhân viên thu thuế thu về cũng chính là
những gì người đóng thuế mất đi.
Nếu chính phủ yêu cầu tất cả mọi người tại các số nhà chẵn trả một đô-la
cho các số nhà lẻ, sẽ không ai tranh cãi rằng nguồn lực của xã hội có thêm
một khoản tăng thực. Nếu chính phủ định ra mức thuế là một đô-la đối với
mỗi người trong số 100 triệu người dân Mỹ sống tại số nhà chẵn và phân
phối khoản tiền thu được, doanh thu của chính phủ sẽ tăng thêm 100 triệu
đô-la mà không có thêm lợi ích thực nào cho xã hội.
Tất nhiên, điều này giả định rằng chính phủ có phân phối lại thu nhập –
hoặc là trực tiếp (chẳng hạn như qua các khoản an sinh xã hội) hay gián
tiếp (chẳng hạn như bằng cách xây dựng một bưu điện cung cấp những dịch
vụ có giá trị). Nếu chính phủ chọn việc dùng 100 triệu đô-la đó trong doanh
thu mới tìm được vào một dự án lãng phí nào đó thay vì phân phối nó, thì
xã hội sẽ bị nghèo đi. Nhưng sự nghèo đi này nên thuộc về bản thân dự án