Tôi bay từ Denver cùng vợ, giá vé khứ hồi của chúng tôi chỉ dưới 2.500
đô-la. Tôi đã đưa ra một số lựa chọn khác cho phía nhà xuất bản nơi sẽ
thanh toán hóa đơn này, nhưng ông ta cứ khăng khăng dù thế nào chúng tôi
cũng phải đến. Dù vậy, tôi tự nhủ nếu tôi phải thanh toán tiền vé theo cách
của mình, có lẽ tôi đã hủy chuyến đi.
Điều này đã khiến tôi lâm vào một tình thế tiến thoái lưỡng nan: Giả sử
bạn sẵn sàng tiêu tốn 300 đô-la để đi đến Boston rồi quay trở về. Hãng
hàng không chỉ cần 200 đô-la để cung cấp dịch vụ vận chuyển. Thế nhưng,
do có một thế lực độc quyền quy mô lớn, hãng hàng không đòi tới 1.000
đô-la cho tấm vé. Vậy bạn có nên bay hay không?
Nếu bạn chỉ quan tâm đến hiệu quả thuần túy, hiển nhiên bạn sẽ bay.
Nếu bạn bay, bạn sẽ thiệt mất 700 đô-la (phần chênh lệch giữa số tiền
bạn trả so với giá trị thực của chuyến bay), trong khi chủ sở hữu hãng hàng
không có thêm 800 đô-la (phần chênh lệch giữa khoản thu về và chi phí cho
chuyến bay của bạn). Như vậy, có một khoản thu nhập chính xác 100 đô-la
và tiêu chí về hiệu quả chỉ ra chuyến bay là một hoạt động có lợi.
Thế nhưng tôi chắc chắn mình sẽ không mua tấm vé đó và cũng không
kém phần chắc chắn tôi chẳng thấy băn khoăn về điều đó chút nào. Tôi dám
chắc mình vẫn sẽ rút ra một kết luận như vậy bất kể chủ hãng hàng không
trông chờ thu được nhiều bao nhiêu, hay tôi chịu thiệt ít bao nhiêu chăng
nữa. Vì lẽ đó, cho dù tôi vẫn tin tưởng rằng tính hiệu quả thường là kim chỉ
nam đúng đắn cho các chính sách của chính phủ, và cũng thường định
hướng đúng cho hành vi của mỗi cá nhân, nhưng giờ đây tôi cho rằng
chúng ta cần có một tiêu chí khôn ngoan hơn trước khi nhận biết như thế
nào là tốt. Tôi tin có lúc mình nên hành động sao cho hiệu quả, và có những
lúc không cần làm như vậy. Có điều tôi vẫn chưa hình dung ra quy luật để
nhận biết đâu là thời điểm thích hợp cho mỗi cách hàng xử.
Tôi đã nhặt lại tờ đô-la mà chẳng hề quan tâm chút nào đến tác động của
việc đó lên mặt bằng giá chung. Mặc dù tôi không hiểu tại sao, song tôi
chẳng cảm thấy tội lỗi chút nào.