khác nhau, và cho phép đo lường ảnh hưởng của phương thức bầu cử này
qua thời gian.
Cử tri Thụy Sĩ sẽ không bao giờ phải lặp lại việc đi tới những hòm
phiếu trong suốt ngày bão; chi phí của một phiếu bầu đã giảm đáng kể. Do
vậy một mô hình kinh tế dự đoán số lượng cử tri sẽ tăng lên đáng kể. Liệu
đó có phải là những gì xảy ra?
Không hẳn. Thực tế là số lượng cử tri thường giảm, đặc biệt là tại
những tỉnh nhỏ hơn và trong những cộng đồng nhỏ hơn. Phát hiện này
ngầm chỉ ra vấn đề nghiêm trọng trong quá trình tuyên truyền bầu cử trên
Internet, vốn đã bị tranh luận trong một thời gian dài rằng liệu nó có làm
cho việc bỏ phiếu trở nên dễ dàng hơn và tăng số lượng cử tri lên hay
không. Nhưng mô hình của người Thụy Sĩ chứng minh rằng điều trái ngược
có lẽ vẫn đúng.
Tại sao xảy ra trường hợp này? Tại sao chi phí của một lá phiếu càng
thấp thì càng ít người đi bỏ phiếu hơn?
Quay trở lại với những động lực đằng sau lá phiếu. Nếu một công dân
không có cơ hội gây ảnh hưởng đến kết quả thông qua phiếu bầu của mình
thì tại sao cô ta lại cảm thấy phiền? Ở Thụy Sĩ, cũng như ở Mỹ “tồn tại một
chuẩn mực xã hội khá phổ biến đó là một công dân tốt thì nên đi bỏ phiếu”.
Funk viết: “Nếu việc bỏ phiếu là lựa chọn duy nhất, thì vẫn có một động
lực (áp lực) để đi bỏ phiếu đó là để được xem như đã tham gia bầu cử.
Động lực có thể xuất phát từ hy vọng nhận được sự quý trọng từ phía xã
hội, hoặc là nhận được những lợi ích khi là một người cộng tác, cũng có thể
chỉ để tránh bị trừng phạt không chính thức. Bởi vì trong những cộng đồng
nhỏ, mọi người biết nhau rõ hơn và thường nói chuyện phiếm về việc ai đã
thực hiện quyền công dân và ai chưa, những lợi ích của việc tuân thủ quy
tắc đạo đức có vẻ khá cao trong kiểu cộng đồng này.
Nói cách khác, việc chúng ta bầu cử không đem lại lợi ích cho bản
thân – kết luận này làm hài lòng nhiều nhà kinh tế học – nhưng phiếu bầu