đã phát huy tác dụng. Mỗi năm ông đã sử dụng tới 7.000 chiếc hộp và trung
bình chỉ mất đi một hộp. Đây là một số liệu hấp dẫn: những người thường
xuyên ăn gian hơn 10% số bánh vòng của ông hầu như không bao giờ tệ
đến mức ăn cắp hộp tiền. Theo quan điểm của Feldman, một nhân viên văn
phòng ăn một chiếc bánh mà không trả tiền sẽ bị coi là phạm tội; nhưng có
lẽ nhân viên văn phòng đó không nghĩ vậy. Sự khác biệt này có thể không
có ý nghĩa mấy với khoản tiền đúng là rất nhỏ so với việc gọi là “tội
phạm”. (Bánh vòng của Feldman chỉ có giá một đô-la mỗi chiếc có cả pho
mát kem). Cũng nhân viên văn phòng gian lận đó cũng có thể tự cho mình
một cốc soda trong cửa hàng tự phục vụ, nhưng sẽ không có chuyện anh ta
rời cửa hàng mà không trả tiền.
Vì vậy, các dữ liệu về bánh vòng nói lên điều gì? Trong những năm
gần đây, đã có hai xu hướng đáng chú ý trong tổng tỷ lệ thanh toán. Xu
hướng thứ nhất là sự giảm sút dần dần bắt đầu từ năm 1992. Vào mùa hè
năm 2001, tổng tỷ lệ thanh toán đã trượt xuống còn khoảng 87%. Nhưng
thật bất ngờ sau vụ 11 tháng Chín của năm đó, tỷ lệ này đã tăng lên đúng
2% và không giảm nhiều nữa kể từ sau đó. (Nếu bạn thấy tăng được 2%
trong thanh toán nghe có vẻ như không nhiều thì hãy suy nghĩ theo cách
này: tỷ lệ không thanh toán giảm từ 13 xuống còn 11% có nghĩa là đã giảm
15% tỷ lệ ăn cắp). Nhiều khách hàng của Feldman cũng quan tâm đến an
ninh quốc gia, do vậy có thể đã có yếu tố ái quốc đối với hiệu ứng ngày 11
tháng Chín, hoặc sự kiện này có thể đã thể hiện sự đồng cảm lên cao trong
cộng đồng.
Dữ liệu cũng cho thấy rằng các công ty nhỏ trung thực hơn các công
ty lớn. Một văn phòng với vài chục nhân viên thường có xu hướng trả tiền
bánh vòng nhiều hơn từ 3-5% so với một văn phòng với vài trăm nhân
viên. Điều này có vẻ khác thường. Trong một văn phòng lớn, số người
đông sẽ thường tụ tập xung quanh bàn bày bánh, vì vậy sẽ có nhiều người
chứng kiến anh bỏ tiền vào trong hộp hơn. Nhưng đối với sự so sánh giữa
văn phòng lớn/văn phòng nhỏ, những người ăn bánh vòng không trả tiền