Chương 7
NHỮNG RỦI RO TỪ SỰ BIẾN ĐỔI VỀ
DÂN SỐ
PHẠM SỸ THÀNH
DẪN NHẬP
Trong khoảng thời gian 30 năm qua, Trung Quốc đã hoàn tất quá trình chuyển
từ một “xã hội theo mô hình dân số quá độ” sang “xã hội theo mô hình hậu quá
độ” (Wang & Mason, 2009).
Đặc trưng của xã hội theo mô hình dân số quá độ là dân số tăng trưởng với tốc
độ cao do cải thiện được tỉ lệ chết thô (crude death rate). Tuy nhiên, trong giai
đoạn tiếp theo, khi tỉ lệ sinh thô (crude birth rate) suy giảm, dân số có khuynh
hướng tăng trưởng chậm lại. Một xã hội hoàn tất quá trình quá độ về dân số khi
(i) tuổi thọ tăng mạnh, (ii) tỉ lệ sinh thô thấp hơn mức thay thế dân số và (iii) dân
số ngày càng lão hóa. Sau ngày nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa thành lập,
dân số Trung Quốc đã trải qua một giai đoạn tăng trưởng mạnh ở mức trên 2,3%
(1965 - 1975) và trên 1,5% (1985 - 1990). Với việc duy trì được tỉ lệ tăng trưởng
dân số này, đến năm 2015 Trung Quốc có thể đạt được mức đỉnh về quy mô dân
số, sau đó, một cách nhanh chóng, quốc gia này sẽ bước vào giai đoạn suy giảm
dân số. Điều đáng chú ý là tốc độ suy giảm dân số của Trung Quốc – dưới tác
động của “chính sách một con”, sự tăng trưởng kinh tế và mức sống được cải
thiện mạnh mẽ – sẽ nhanh hơn so với mức trung bình của các nước phát triển và
nhanh hơn nhiều so với quốc gia có “dân số trẻ” Ấn Độ. Đồng thời, sự suy giảm
lực lượng lao động trong điều kiện tuổi thọ trung bình được nâng cao nhờ những
cải thiện về kinh tế và y tế sẽ khiến Trung Quốc phải đối mặt với tốc độ cao về
lão hóa dân số. Sự già hóa của dân số Trung Quốc ở mức độ nhất định cũng có
bước tiến tương tự như những gì Nhật Bản – quốc gia có tỉ lệ người già lớn nhất
thế giới – trải qua trong quá khứ.