Chương này được chia thành 3 phần. Phần 1, điểm lại các chính sách dân số
chủ yếu của Trung Quốc kể từ năm 1949 đến nay. Phần 2, phân tích các khuynh
hướng biến đổi về mặt dân số của Trung Quốc với dự báo đến năm 2030. Trên cơ
sở đó, phần 3 đánh giá về một số rủi ro/tác động từ sự biến đổi cơ cấu dân số đối
với kinh tế Trung Quốc.
NHỮNG CHÍNH SÁCH DÂN SỐ CHỦ YẾU CỦA
TRUNG QUỐC KỂ TỪ NĂM 1949
Vào thời điểm nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa vừa mới thành lập (năm
1949), dân số nước này chỉ có 550,78 triệu người. Năm 1985, dân số Trung Quốc
đạt 1,056 tỉ người
. Mặc dù thời gian tăng gấp đôi dân số của Trung Quốc vẫn ở
mức 35 năm
, nhưng trong điều kiện kinh tế còn nhiều khó khăn thì nguồn dân
số này tạo ra một áp lực không nhỏ cho chính phủ trong việc tạo việc làm cũng
như duy trì hệ thống an sinh xã hội. Trên thực tế, ngay từ đầu những năm 1960,
Trung Quốc đã bắt đầu nhận thức được những áp lực mà tình trạng bùng nổ dân
số có thể gây ra sau những tranh luận liên tục về “thuyết dân số mới” mà Mã
Dần Sơ nêu ra năm 1957
. Mặc dù vậy, thời kì này, chính phủ Trung Quốc chưa
ban hành bất kì chính sách dân số cụ thể nào. Tuy nhiên, trước tình trạng dân số
tăng nhanh và kinh tế bị “tàn phá” bởi 3 năm Đại nhảy vọt (1959 - 1961), tầng
lớp lãnh đạo cao nhất của Trung Quốc đã dần đi đến nhận thức chung rằng khống
chế gia tăng dân số là điều kiện then chốt để cải thiện thu nhập bình quân (Wang
& Mason, 2009). Quan điểm “Malthus mới” – coi khống chế tăng dân số và cải
cách kinh tế là “quốc sách cơ bản” – dẫn đến sự ra đời của các chính sách dân số
nghiêm ngặt trong giai đoạn tiếp đó (Wang, 2005).
Tháng 12/1962, Chính vụ viện (sau đổi tên thành Quốc vụ viện) Trung Quốc
ban hành văn bản “Chỉ thị về việc nghiêm túc đề xướng kế hoạch hóa gia đình”,
theo đó đề xuất việc thực hiện sinh đẻ có kế hoạch tại các đô thị và khu vực nông
thôn có mật độ dân số cao, kiểm soát một cách hợp lí tỉ lệ tăng trưởng dân số tự
nhiên. Năm 1970, vấn đề kế hoạch hóa dân số chính thức được đưa vào kế hoạch
phát triển kinh tế quốc dân của Trung Quốc. Tại một hội nghị toàn thể của Bộ Y
tế - Vệ sinh năm 1970, Chu Ân Lai cho rằng: “Sinh đẻ có kế hoạch thuộc phạm
vi kế hoạch quốc gia, không phải là vấn đề y tế mà là vấn đề kế hoạch. Nếu