không thể quy hoạch nổi vấn đề dân số thì còn thiết lập kế hoạch quốc gia như
thế nào” (Dương Khôi Phù chủ biên, 2001). Tuy nhiên, phải đến thập niên 1980,
việc thực hiện kế hoạch hóa gia đình mới mang tính bắt buộc.
Ngày 25/9/1980, Trung ương Đảng Cộng sản Trung Quốc ban hành văn bản
“Thư ngỏ gửi toàn thể đảng viên Đảng Cộng sản và đoàn viên thanh niên Trung
Quốc về việc kiểm soát vấn đề tăng trưởng dân số”, chính thức quy định mỗi cặp
vợ chồng chỉ được sinh một con. Năm 1988, trên cơ sở tổng kết kinh nghiệm
thực hiện “chính sách một con”, Trung Quốc tiếp tục ban hành chính sách
khuyến khích kết hôn muộn – sinh con muộn, đề xuất mỗi cặp vợ chồng chỉ sinh
một con. Nhưng một số trường hợp đặc thù vẫn được cho phép sinh hai con, như
trường hợp cán bộ nhà nước và công chức ở thành thị đã được phê chuẩn, hoặc
hộ gia đình chỉ còn có một người và là nữ.
Kể từ thập niên 1990, việc chấp hành chính sách kế hoạch hóa gia đình của
Trung Quốc đã có sự chuyển biến rõ rệt từ việc dựa vào phương thức hành chính
sang chú trọng cung cấp dịch vụ (Kaufman, 2003). Tuy nhiên, tại các thành phố,
chính sách một con vẫn được thi hành chặt chẽ. Năm 1991, Trung ương Đảng
Cộng sản Trung Quốc tiếp tục ban hành “Quyết định về việc tăng cường công tác
kế hoạch hóa gia đình, kiểm soát chặt chẽ sự tăng trưởng dân số”, trong đó nhấn
mạnh lại những nội dung của chính sách dân số trước đây, đồng thời yêu cầu
đảm bảo tính liên tục và ổn định của việc thực hiện chính sách này.
Sang thế kỉ 21, chính sách dân số tiếp tục được thể chế hóa ở mức cao hơn.
Tháng 12/2001, Trung Quốc ban hành “Luật dân số và kế hoạch hóa gia đình”,
chính thức có hiệu lực từ tháng 9/2002. Luật này quy định việc thực hiện kế
hoạch hóa gia đình là quốc sách cơ bản của Trung Quốc, duy trì chính sách dân
số hiện tại đồng thời khuyến khích người dân kết hôn, sinh con muộn, đề xướng
mỗi cặp vợ chồng chỉ sinh một con, những trường hợp đáp ứng được yêu cầu của
luật này thì được phép sinh hai con.
Cùng với thời gian, các chính sách dân số của Trung Quốc đã dần chuyển từ
việc khống chế quy mô dân số sang nâng cao chất lượng dân số. Tháng 12/2006,
Quốc vụ viện ban hành “Quyết định về việc tăng cường toàn diện công tác dân
số và kế hoạch hóa gia đình, quy hoạch tổng thể vấn đề dân số”, trong đó nhấn
mạnh việc ưu tiên đầu tư cho vốn con người dựa trên nền tảng kiểm soát được