vô dư tử: Chỉ trong mắt không có ai, là người tự cao tự đại. Tử hư ô hữu: Chỉ
chuyện tào lao, chuyện bịa. Hữu mục cộng đổ: Chuyện ai cũng biết, ai có mắt
cũng thấy. Đổ vật tư nhân: Nhìn vật lại nhớ tới người. Nhân trung kì kí: Chỉ
người tài, người xuất chúng. Kí tự long văn: Chỉ thần đồng, anh tài. Văn chất bân
bân: Nho nhã, lễ phép. Bân bân hữu lễ: Cũng cùng nghĩa với văn chất bân bân.
Cầm(
琴)sắt(瑟)tỳ(琵)bà(琶) là bốn loại nhạc cụ, phía trên bốn chữ này đều có bộ
hai chữ vương, tổng cộng là tám chữ Vương (Bát đại vương). Đào phi kí: Phi tần
bỏ trốn. Thứ tử: Con của thiếp thất. Đích tử: Con của chính thất. Bả tổng: Một
chức quan. Sát có nghĩa là hung dữ. Quế Cầm: Tên của Vương thị. Lôi Phong:
Một chiến sĩ của Quân giải phóng Nhân dân Trung Quốc, anh được miêu tả là
người vị tha, khiêm tốn, hết lòng vì Đảng và chủ tịch Mao Trạch Đông, anh còn
trở thành đề tài cho cuộc vận động toàn quốc có tên “Noi theo tấm gương đồng
chí Lôi Phong”. Tức năm hành tinh: Kim, Mộc, Thủy, Hỏa, Thổ xếp thẳng hàng.
Hay còn gọi là ngũ tinh tụ. biên tu: Là một chức quan. Hai câu đầu trong Hậu
đình hoa (Hoa nở sân sau) của Triệu Mãnh (Đời Nguyên). Nghĩa là: Một chiếc
thuyền lá trên khe suối, bên bờ phù dung nở rộ. Đây là một câu đối với ý là:
“Ánh trăng trên mặt nước khiến màn đêm trở nên đẹp lung linh, hoa mai bên
suối như được trang điểm nhẹ nhàng.” Đông xưởng là một trong bốn cơ quan
giám sát được Hoàng đế thời nhà Minh thành lập nhằm giám sát hành vi, cử chỉ
của các quan lại thuộc mọi cấp. Bốn cơ quan đó gồm: Cẩm y vệ, Đông xưởng,
Tây xưởng và Nội hành xưởng. Danh từ chung để gọi bốn cơ quan đó là Xưởng
vệ. Ngỗ tác: Tên một chức lại để xét nghiệm tử thi. Tống Từ (tiếng Trung:
宋慈)
(1186 - 1249), tự Huệ Phủ, người huyện Kiến Dương, tỉnh Phúc Kiến thời Tống.
Ông là nhà pháp y học trứ danh đời cổ xưa của Trung Quốc và cũng là của thế
giới. Ông viết quyển “Tẩy Oan Tập Lục” (
洗冤集录), một quyển sách chuyên
môn về pháp y học sớm nhất trên toàn thế giới. Phong quan: là vân ngang nằm
giữa đốt thứ nhất và đốt thứ hai của ngón cái trong lòng bàn tay. Nhị công chúa
An Ninh. Ý chỉ việc lập gia đình riêng sau khi hủy hôn. Chữ
好Hảo (Tốt) được
ghép bởi hai chữ
女(Nữ, con gái) và chữ 子 (Nam, con trai). Chủng đậu: Nghĩa
là cách chủng ngừa đậu mùa. Quan phu: Ở đây chỉ người góa vợ. Là câu nói của
Triệu Vân trong Tam Quốc Diễn Nghĩa. Cả câu là: “Đại trượng phu chỉ hoạn
công danh bất lập, hà hoạn vô thê”. Ý muốn nói rằng: Thứ mà đàn ông cần quan
tâm là công danh sự nghiệp, chứ không phải việc thành gia lập thất. Văn Tử
Hằng đọc phiên âm giống với Văn Tử Hanh. Mà Văn Tử trong lời của Tử San có