súc cùng với đất đai tự nhiên, những thứ chẳng mấy khi họ chiếm
giữ.
Nhưng lợi thế rõ rệt của cả người Hebrew lẫn những người Ki Tô
giáo là sự trân trọng con người và khả năng sử dụng “nguồn nhân
lực” của họ. Khác với những bộ tộc chuyên cướp bóc của những người
chỉ biết tự vệ, họ đánh giá cao cá nhân. Và họ có thể kích thích
những cá nhân này tham gia vào các đội ngũ mạnh, từ đó làm cho
những ước vọng của các cá nhân phụ thuộc vào nhu cầu chung của cả
nhóm.
Những nhà lãnh đạo giỏi nhất của thời hiện đại cũng đặt niềm
tin chắc chắn vào con người. Họ cũng nhận ra rằng gợi ra hình
ả
nh “một đội” có vẻ là giả dối nếu các thành viên của đội không
thấy họ được đánh giá như con người, hay nếu các thành viên ấy
nhận thấy người lãnh đạo gặt hái tất cả thành công trong khi họ nai
lưng ra làm.
Sự quan trọng của con người
“Vì phần của Thiên chúa là dân của Ngài” (Deut. 32:9). Đó là
cách Kinh Thánh nói câu: “Con người là tài sản quan trọng nhất” –
không phải là lũ dê, lũ cừu, lạc đà, đền thờ vàng lộng lẫy, hay thậm
chí bản thân những ngôi đền.
Peter Senge, trong cuốn Quy tắc thứ năm đã đưa nhận định mới
cho vấn đề này trong câu: “…động lực là con người. Và con người có
nguyện vọng riêng, ý thức và cách tư duy riêng. Nếu bản thân những
người lao động không quyết tâm đối mặt với mục tiêu tăng trưởng
và phát triển kỹ thuật… thì đơn giản là sẽ không có tăng trưởng,
không có tăng năng suất và cũng không có phát triển kỹ thuật gì
cả.”