của vua sẽ chôn cất ta, làm lễ cúng dường và cung kính xá lợi của ta, nhờ
vậy sẽ sinh lên cõi thiên".
Vị ấy dùng thần lực bay đến đây và ngay khi chạm mái hoàng cung, vị ấy
liền buông xả gánh nặng sinh tử và ca khúc hoan lạc làm chói sáng lối vào
cảnh giới Niết-bàn.
Rồi ngài ngâm vần kệ thứ tám do vị Ðộc Giác Phật cảm tác:
Tiếng vị Ðộc Giác:
8. Tái sinh đã tận với ta,
Không vào thai mẹ từ giờ về sau,
Ðây đời cuối ở địa cầu
Sắp tàn cùng mọi khổ đau phàm trần.
Cùng với những lời cực lạc này, vị ấy đến ngự viên và đắc Niết-bàn vô dư y
dưới gốc cây Sàla đang nở rộ hoa.
Rồi Bậc Ðại Sĩ đưa vua đến nơi vị Ðộc Giác Phật đắc Niết-bàn và chỉ cho
vua phần nhục thân của Ngài. Thấy vậy, vua cùng đoàn quân đông đảo đem
hương hoa đến cung kính làm lễ cúng dường.
Theo lời khuyên của Bồ-tát, vua đình chỉ việc tế đàn, cho mọi sinh vật được
sống, truyền rao trống lệnh khắp kinh thành cấm sát sinh, cử hành đại lễ suốt
bảy ngày, rồi làm lễ hỏa táng thân vị Ðộc Giác Phật rất trọng thể trên hỏa đài
chất đầy hương liệu và xây tháp ở ngã tư đường.
Bồ-tát thuyết giảng Chánh pháp cho vua và khuyên nhủ vua tinh cần. Sau đó
ngài trở về Tuyết Sơn, thực hành Tứ vô lượng tâm (Từ, Bi, Hỷ, Xả) và
không hề gián đoạn Thiền định nên được sinh vào cõi Phạm thiên.
*
Sau Pháp thoại, bậc Ðạo Sư bảo:
- Thưa Ðại vương, không có gì nguy hiểm cho Ðại vương do các tiếng kêu
ấy, vậy hãy đình chỉ tế đàn và ban sự sống cho các sinh vật này.
Rồi vua bảo truyền trống lệnh đi khắp kinh thành tha mạng các súc vật.