Trung Bộ Kinh – Tập 2
107
ngữ, vì rằng có tác dụng, nếu có ai nói rằng có tác dụng, thời
không tự mâu thuẫn đối nghịch với các vị A-la-hán đã biết
được có tác dụng. Vì rằng có tác dụng, nếu có ai thuyết phục
người khác là có tác dụng, thời sự thuyết phục ấy thuận với
diệu pháp, và vì sự thuyết phục ấy thuận với diệu pháp, vị ấy
không khen mình chê người. Như vậy trước khi ác giới của
vị ấy được từ bỏ, các thiện giới đã được chấp trì. Và chánh
kiến, chánh tư duy, chánh ngữ, sự không đối nghịch với các
bậc Thánh, sự thuyết phục thuận với diệu pháp, sự không
khen mình chê người, như vậy những thiện pháp sai biệt này
khởi lên, do duyên chánh kiến.
Ở đây, này các Gia chủ, vị có trí suy nghĩ như sau: Nếu
có tác dụng, thời vị này, sau khi thân hoại mạng chung, sẽ
được sanh lên thiện thú, Thiên giới, cõi đời này. Nếu muốn
tác dụng không có đi nữa, nếu lời nói của các Sa-môn, Bà-la-
môn ấy là đúng sự thật, thời vị này ngay trong hiện tại được
những người có trí tán thán: "Người này theo thiện giới, có
chánh kiến, chủ trương có tác dụng". Còn nếu có tác dụng,
thời vị này cả hai mặt đều gặp sự may mắn: ngay trong hiện
tại, được những người trí tán thán; sau khi thân hoại mạng
chung, sẽ sanh lên thiện thú, Thiên giới, cõi đời này. Như
vậy, pháp "không gì chuyển hướng" này được chấp trì, được
thực hành đúng đắn, bởi vị này chấp nhận cả hai phía, và bỏ
qua phía bất thiện pháp.
(III. Thuyết vô nhân duyên)
Này các Gia chủ, có một số Sa-môn, Bà-la-môn có lập
thuyết như sau, có quan điểm như sau: "Không có nhân,
không có duyên, các loài hữu tình bị nhiễm ô; vô nhân vô
duyên, các loài hữu tình bị nhiễm ô. Không có nhân, không
có duyên, các loài hữu tình được thanh tịnh; vô nhân vô
duyên, các loài hữu tình được thanh tịnh. Không có lực,