392
139. Kinh Vô tránh phân biệt (Aranavibhanga sutta)
Tại đây, này các Tỷ-kheo, đây là Trung đạo đã được
Thế Tôn giác ngộ, tác thành mắt, tác thành trí, đưa đến an
tịnh, thắng trí, giác ngộ, Niết - bàn. Pháp này không có đau
khổ, không có phiền lao, không có ưu não, không có nhiệt
não, thuộc chánh đạo. Do vậy, pháp này là pháp vô tránh.
Tại đây, này các Tỷ-kheo, pháp tán thán và chỉ trích
nhưng không thuyết pháp này, pháp này có đau khổ, có phiền
lao, có ưu não, có phiền não, thuộc tà đạo. Do vậy, pháp này
là pháp hữu tránh.
Tại đây, này các Tỷ-kheo, pháp không tán thán, cũng
không chỉ trích, chỉ có thuyết pháp, pháp này không có đau
khổ, không có phiền lao, không có ưu não, không có nhiệt
não, thuộc chánh đạo. Do vậy, pháp này là pháp vô tránh.
Tại đây, này các Tỷ-kheo, pháp dục lạc này là uế lạc,
phàm phu lạc, phi Thánh lạc, pháp này là pháp có đau khổ,
có phiền lao, có ưu não, có nhiệt não. Do vậy, pháp này là
pháp hữu tránh.
Tại đây, này các Tỷ-kheo, pháp xuất ly lạc, viễn ly lạc,
an tịnh lạc, pháp này là pháp không đau khổ, không phiền lao,
không ưu não, không nhiệt não, thuộc chánh đạo. Do vậy,
pháp này là pháp vô tránh.
Tại đây, này các Tỷ-kheo, phàm lời nói bí mật nào
không thật, hư vọng, không liên hệ mục đích, pháp này là
pháp có đau khổ, có phiền lao, có ưu não, có nhiệt não, thuộc
tà đạo. Do vậy, pháp này là pháp hữu tránh.
Tại đây, này các Tỷ-kheo, phàm lời nói bí mật nào là
chân thật, không hư vọng, không liên hệ mục đích, pháp này
là pháp có đau khổ, có phiền lao, có ưu não, có nhiệt não,
thuộc tà đạo. Do vậy, pháp này là pháp hữu tránh.