trăm so với năm 1971, nhưng vẫn cao hơn 6,1 điểm so với số phiếu
bầu cho Đảng Dân chủ Mới. Chỉ đến năm 1978, DRP mới giành số
phiếu ít hơn NDP trong bầu cử Nghị viện Quốc gia; đảng của Park
thua 0,5%. Vấn đề về tính không chính danh bị cáo buộc chỉ ám ảnh
Park trước năm 1963 và sau 1972, tuy nhiên chính trong giai đoạn
giữa hai mốc này ông đã ra những quyết định chính trị rủi ro nhất:
bình thường hóa quan hệ ngoại giao với Nhật Bản, can thiệp quân sự
vào Việt Nam, sửa chữa hiến pháp để chấp thuận một nhiệm kỳ tổng
thống thứ ba, Sắc lệnh Khẩn cấp Bình ổn và Phát triển Kinh tế và công
cuộc công nghiệp hóa ngành công nghiệp nặng và hóa chất. Các quyết
định này của ông không phải là của một lãnh đạo thiếu chính danh.
Hành động chấp nhận rủi ro của ông đã tiến gần đến sự bất chấp, tuy
vậy ông vẫn tin rằng ông có thể kiểm soát được tình hình. Vấn đề của
Park là sự quá tự tin vào năng lực của mình chứ không phải là sự thiếu
tự tin.
Khả năng lãnh đạo chính trị của Park đến từ đâu? Park là một người
xây dựng tổ chức, ông đã nuôi dưỡng vị thế của mình bằng cách cai trị
thông qua một cấu trúc hai mũi nhọn, gồm Cơ quan Tình báo Trung
ương Hàn Quốc che chắn cho ông trong lĩnh vực chính trị và Ban Kế
hoạch Kinh tế phối hợp cùng Ban Thư ký Nhà Xanh lãnh đạo các bộ
ngành nhà nước theo một chương trình huy động nguồn lực có điều
phối. Để chèo lái được chính phủ hai mũi nhọn này theo một hướng có
thể tăng cường quyền lực cho mình, Park đã xây dựng một hệ thống
rất phức tạp có chức năng kiểm soát và cân bằng, thâu nạp và đàn áp
có chọn lọc, cùng với một hệ thống phân chia lao động bên trong mỗi
một trong hai lĩnh vực này, bên cạnh đó ông cũng giao cho KCIA và
EPB quyền lập kế hoạch, thực hiện và giám sát những hoạt động cần
thiết phải có để kiểm soát nhà nước về mặt chính trị và huy động các
nguồn lực để hiện đại hóa đất nước. Park chọn cách làm việc thông
qua KCIA và EPB, nhưng ông cũng cẩn thận để không phải trở thành
tù nhân của những cận vệ này, dù khả năng làm được việc đó cụt giảm