“công ty hàng đầu quốc gia”, cá nhân Park cũng ưu tiên duy trì sở hữu
quốc gia đối với các tài sản sản xuất và chọn các khoản vay thương
mại nước ngoài thay vì FDI để xây dựng các ngành công nghiệp non
trẻ. Không những thế, Park càng quyết tâm hơn trên con đường dân
tộc chủ nghĩa tiến đến hiện đại hóa vì Hàn Quốc không phải là một nơi
chốn đầu tư thân thiện với MNC, nước này bị ảnh hưởng bởi tình
trạng bất ổn chính trị triền miên, thị trường nội địa hạn hẹp và tài
nguyên thiên nhiên nghèo nàn. Nền kinh tế lúc bấy giờ cũng vẫn còn
phải chật vật với hoạt động tái thiết sau Chiến tranh Triều Tiên.
Ngược lại, lựa chọn thay thế những nhà sản xuất tư nhân bằng các
doanh nghiệp sở hữu nhà nước (SOE) để giữ vai trò bộ máy tăng
trưởng đã được thử nghiệm trong một giai đoạn ngắn vào giữa năm
1962 khi Park thất vọng với sự đình trệ trong các hoạt động đầu tư do
các tập đoàn chaebol hứa hẹn ở các dự án của FYEDP đầu tiên, ủng
hộ các ý tưởng cấp tiến về tiết kiệm cưỡng bức được vạch ra bởi Cơ
quan Tình báo Trung ương Hàn Quốc (KCIA) do Kim Jong-pil đứng
đầu, Park xem Công ty Phát triển Công nghiệp Hàn Quốc (KIDC)
thuộc kiểm soát nhà nước mới được củng cố như một kênh truyền dẫn
nguồn lực tài chính từ các tài khoản ngân hàng bị đóng băng vào các
dự án FYEDP trong cuộc cải cách tiền tệ tháng 6 năm 1962. Hoạt
động trong thời gian ngắn với chủ nghĩa trung ương tập quyền cấp tiến
này kết thúc như một thất bại chính trị cay đắng, Hoa Kỳ phản đối dữ
dội với việc tạm ngưng viện trợ vì nước này cáo buộc chính quyền
quân sự đang cố gắng hướng đến một nền kinh tế xã hội chủ nghĩa.
Với hơn 90% ngân sách quốc gia từ các quỹ đối giá
Mỹ tạo ra vào năm 1961, Park không thể nào quay lại với cuộc cải
cách tiền tệ và hoạt động tài trợ dự án thông qua KIDC. Chính quyền
quân sự nhận thấy cần chuyển sang nhiệm vụ ban đầu là đàm phán về
mối quan hệ nhà nước-chaebol, mối quan hệ sẽ biến chaebol thành
một đối tác sẵn sàng của nhà nước trong công cuộc phát triển kinh tế.