dịch tài chính thương mại. Thay vì vậy, chúng trở thành một công cụ
mà thông qua đó nhà nước có thể đảm bảo được sự tuân thủ của doanh
nghiệp với các mục tiêu trong chính sách công nghiệp và kế hoạch
kinh tế vĩ mô. Bằng cách ngấm ngầm đe dọa chấm dứt các khoản cho
vay ưu đãi ngân hàng nếu người đi vay không thể đạt được các chỉ tiêu
do nhà nước đặt ra, MoF sử dụng các ngân hàng thương mại như là cả
củ cà rốt và cây gậy trong nỗ lực định hình lại những ưu tiên, lợi ích
và chiến lược của các doanh nghiệp theo định hướng Kế hoạch Phát
triển Kinh tế 5 năm (FYEDP).
Khi Park sắp xếp xong tổ hợp bộ máy quan liêu kinh tế tập trung
hóa và các ngân hàng thương mại quốc doanh vào tháng 7 năm 1961,
ông bắt đầu tìm kiếm các đối tác doanh nghiệp. Sự lựa chọn của ông là
các chaebol mà ban đầu ông đã ra lệnh giam giữ tại gia những chủ sở
hữu-giám đốc của chúng vì tội tích lũy tài sản phi pháp ngay sau cuộc
đảo chính quân sự. Mặc dù công chúng vẫn còn chỉ trích hoạt động
trục lợi của các công ty lớn này trong thời Lý Thừa Vãn (1948-1960),
Park nhanh chóng đánh giá cao các kết quả kinh doanh thành công đã
được chứng minh của những lãnh đạo này. Và trong bất cứ trường hợp
nào, tính kinh tế theo quy mô cần thiết để hiện thực hóa tầm nhìn của
Park về việc xây dựng một nền kinh tế công nghiệp hiện đại trong
cuộc đời mình sẽ không thể đạt được khi dựa vào các doanh nghiệp
vừa và nhỏ (SME). Các doanh nghiệp lớn với khả năng tiếp cận vốn
và công nghệ là những chủ thế duy nhất có thể tham gia vào các dự án
hạ tầng quy mô lớn và sản xuất hảng loạt các hàng hóa xuất khẩu.
Mặt khác, Park loại bỏ những công ty đa quốc gia (MNC) ra khỏi
các đối tác doanh nghiệp tiềm năng của mình vì cả ý muốn của ông và
vì điều đó là cần thiết. Các ký ức về sự bóc lột của thực dân Nhật vẫn
còn mới đó trong tư tưởng của người Hàn Quốc khiến lựa chọn tạo ra
tăng trưởng kinh tế thông qua đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) không
được ủng hộ. Là một người ngưỡng mộ công cuộc Tái thiết Minh Trị
Nhật Bản đã hiện đại hóa đất nước bằng cách nuôi dưỡng những