tăng trưởng kinh doanh do được tài trợ từ nợ càng khó cưỡng lại được
khi tỷ lệ lạm phát trung bình lúc bấy giờ vào khoảng 21%/ năm - ba
đến năm điểm phần trăm dưới mức lãi suất cho vay của ngân hàng
quốc doanh. Cũng quan trọng không kém, trái với lãi suất ngân hàng
trong nước của Hàn Quốc vào khoảng giữa 24-26% giai đoạn 1965-
1970; lãi suất của các khoản vay chính sách xuất khẩu, nhiều trong số
này để cấp cho chaebol và được tài trợ bằng nợ nước ngoài, nằm trong
khoảng 6,0-6,5%. Báo chí thậm chí còn cáo buộc một số chaebol đã
cho vay lại các khoản vay ngân hàng của họ trên thị trường chứng
khoán phi chính thức tư nhân, nơi mà lãi suất lên đến 50-60%, thay vì
đầu tư vào các dự án sản xuất rủi ro. Theo một cách nào đó, các công
ty càng có lợi nhuận khi giành được càng nhiều các khoản vay ngân
hàng trong nước.
Bên cạnh đó, Park để cho chaebol xây dựng cấu trúc quản trị tập
đoàn, các mối quan hệ liên doanh nghiệp và hệ thống thứ bậc nội bộ
theo hướng cho phép họ gia tăng vốn đầu tư với mức rủi ro tối thiểu
cho quyền kiểm soát doanh nghiệp của họ. Chaebol thành lập nhiều
doanh nghiệp với một lượng vốn chủ sở hữu tối thiểu thông qua hệ
thống nắm giữ cổ phần chéo và các khoản bảo lãnh cho vay chéo, khi
đó vẫn được bảo vệ hợp pháp khỏi những kẻ mua lại thù địch.
Chaebol cũng yêu cầu các công ty con của mình phải hỗ trợ lẫn nhau
thông qua các hoạt động mua bán và trợ cấp nội bộ, đồng thời tập
trung hóa quy trình ra quyết định nội bộ bằng cách thiết lập một văn
phòng hoạch định và quản lý với mục tiêu phối hợp nhịp nhàng các
hoạt động hỗ trợ lẫn nhau giữa các công ty liên kết. Cái mà chúng ta
biết đến như là chaebol ngày nay đã hình thành từ các thử nghiệm tổ
chức giữa những năm 1960: một nhóm các doanh nghiệp có vẻ như
độc lập nhưng thật ra lại được điều hành bởi một gia đình chủ sở hữu-
giám đốc thông qua cấu trúc quản trị doanh nghiệp khó hiểu, bao gồm
nắm giữ cổ phần chéo, bảo lãnh cho vay chéo, mua bán, trợ cấp nội bộ
giữa các công ty và các văn phòng hoạch định và quản lý được tập