vào các mục đích gia đình. Tôi van nài sự thấu hiểu của ông ta, nhưng một ngày
nọ ông ta đến cùng với người của mình và dán giấy đỏ lên tất cả mọi thứ tôi có
trong nhà. Chúng tôi không thể sử dụng bất cứ đồ dùng gia dụng nào [vì đồ dùng
có dán giấy đỏ sẽ bị tịch thu để trả nợ]. Tôi phải vay “tiền nóng” từ những người
cho vay tư nhân với lãi suất cao một cách vô lý để trả các khoản nợ nông nghiệp.
Cuối cùng, tôi đã mất đi hai (majigi) [mảnh] ruộng.
Hồi tưởng của người nông dân đó trùng khớp với sự thay đổi chính
sách nông nghiệp của MAF năm 1964. Để đối phó với lạm phát mất
kiểm soát bắt đầu vào cuối năm 1963, NACF dưới sự định hướng của
MAF bắt đầu yêu cầu người dân thanh toán nhiều khoản vay quá hạn.
Vì vợ của ông ta không còn phù hợp cho chính quyền địa phương, nên
người được phỏng vấn ít có khả năng được miễn khỏi chủ trương thắt
chặt này.
Mặc dù vậy, cũng chính xã hội nông thôn truyền thống gắn bó này
đã cung cấp lá chắn bảo vệ cho một số người ủng hộ NDP. Một nông
dân khác nhớ lại: “Không khó để đoán biết ai bầu cho ứng viên NDP.
Mọi người trong làng đều biết chuyện của nhau. Nhưng anh ta có thể
làm gì khi người thân và hàng xóm của anh ta bầu cho phe đối lập?
Sống trong cùng một khu làng với cùng những người đó trong suốt
cuộc đời và hiểu quá rõ mọi người trong làng, làm sao anh ta có thể
báo cáo những người ủng hộ NDP cho chính quyền địa phương? Điều
đó sẽ khiến họ trở thành kẻ thù suốt đời. Khả năng hầu hết chúng ta
hành động chống lại những người ủng hộ NDP chỉ vì trưởng thôn yêu
cầu như vậy là không thể.”
Các cuộc phỏng vấn cho thấy cử tri nông thôn rất khác biệt so với
những hình dung qua cách diễn giải phổ biến củayeo-chon ya-do. Một
số nông dân Hàn Quốc, như nông dân ở tỉnh Nam Chungcheong năm
1963 và 1967 và các tỉnh Jeolla năm 1967 và 1971, bày tỏ những
khiếu nại của họ bằng cách bầu cho phe đối lập. Tuy nhiên họ thường
xuyên để mình bị vận động vì cơ cấu kết quả từ bầu cử hơn là vì tinh
thần tuân thủ có trong văn hóa. Họ không chỉ toan tính thuận lợi và bất