các linh mục Công giáo Kim Sung-hun, Ham Se-ung và Mun Chong-
hyon; và tu sĩ Phật giáo Chin Kwan. Mặt khác, chính từ những phong
trào sinh viên, đặc biệt nối tiếng vì cường độ và sự bền bỉ, thế hệ lãnh
đạo thứ ba của chaeya nổi lên: Yi Pu-yong, Chang Ki-pyo, Kim Kun-
tae, Kim Chi-ha, Cho Yong-rae, Yi Sin-bom, Yi Chang-bok, Yi Chui,
Yu In-tae, Sim Chae-gwon, Cho Song-U, Yi U-je, Na Pyong-sik, Park
Kye-dong và Han Kyong-nam.
Thứ ba, trong suốt lịch sử phát triển chaeya, các nhóm tôn giáo trở
thành đồng minh quan trọng nhất. Nhà thờ và chùa chiền cung cấp nơi
trú ẩn cho các nhà hoạt động chaeya để trốn tránh cảnh sát, cũng như
trở thành tổ chức phản đối chính trị ngoài tầm với của chính quyền.
Giáo hội cũng sử dụng mạng lưới tổ chức rộng khắp để gây quỹ đều
đặn cho chaeya. Khi báo chí chịu sự kiểm duyệt nặng nề, nhà thờ cũng
mang chức năng “phản truyền thông”, bên cạnh các nhóm nghiên cứu
ngầm ở các cơ sở đại học truyền bá các tư tưởng chính trị hay gây
tranh cãi cho một nhóm người rộng lớn thông qua nhiều hình thức. Do
đó, bất cứ nơi nào chaeya không có tổ chức địa phương phát triển
mạnh, giáo hội sẽ trở thành trọng điểm của phe chống đối. Thông qua
mạng lưới nhà thờ, các bài giảng tôn giáo và các truyền đơn nhà thờ,
lực lượng chaeya điều phối chiến lược chống đối ở các thành viên vốn
phân tán khắp nhiều khu vực. Biết được các khu vực khác đang phát
động đấu tranh giống họ tạo nên sự tin tưởng cho các nhà hoạt động
chaeya địa phương rằng họ cuối cùng sẽ chiến thắng.
Quan trọng không kém, cộng đồng tôn giáo giúp chaeya mở rộng
chương trình nghị sự chống đối chính trị và phát triển đặc trưng của
lực lượng này như là một lực lượng giải phóng bằng cách tạo ra một
bộ các giá trị, chuẩn mực và tư tưởng mới. Tác động biến đổi của tôn
giáo lên chaeya có thể được thấy rõ nhất ở các lĩnh vực nhân quyền và
vấn đề lao động. Được trang bị niềm tin Cơ đốc giáo về “quyền tự
nhiên”, giáo hội đả kích những vi phạm nhân quyền của chế độ yushin.
Cuộc đối đầu giữa nhà thờ và nhà nước leo thang mạnh mẽ khi khối