thương mại tăng cao. Việc mở rộng các hoạt động thương mại giữa hai
nước tạo nên một trong những động cơ thúc đẩy siêu tăng trưởng kinh
tế ở Hàn Quốc. Đồng thời, viện trợ và đền bù kinh tế từ Nhật Bản trở
thành nguồn vốn khởi sự để tài trợ cho các dự án FYEDP chiến lược
của ông và thiết lập nền tảng cho quá trình công nghiệp hóa ngành
công nghiệp nặng và hóa chất những năm 1970. Bên cạnh hoạt động
thương mại song phương bùng nổ và sự tiến hành đúng thời điểm các
chương trình viện trợ kinh tế, hai nước còn gia tăng mức độ hợp tác ở
lĩnh vực quân sự dưới sự giám sát của Hoa Kỳ. Trong tuyên bố chung
Nixon-Satō ngày 21 tháng 11 năm 1969, một “Điều khoản Hàn Quốc”
được đưa vào mà trong đó an ninh Hàn Quốc được xem là thiết yếu
với an ninh Nhật Bản.
Tuy nhiên đồng thời, cần phải nhấn mạnh những hạn chế trong giai
đoạn khôi phục quan hệ của hai nước. Những chỉ đạo của Satō Eisaku
diễn ra cùng lúc với một loạt những thay đổi to lớn trong quan hệ an
ninh Đông Á - tuyên bố về Học thuyết Guam của Nixon (1969), sự
tham gia của Trung Quốc vào Liên Hợp Quốc (1971) và chuyến viếng
thăm Trung Quốc của Nixon (1972) - đã gây ra một giai đoạn khó
khăn cho Park. Đầu tiên, theo sự dẫn dắt của Mỹ, Nhật đã cải thiện
quan hệ song phương với Trung Quốc. Quan trọng hơn, Thủ tướng
Tanaka Kakuei đã xem xét lại mối quan hệ của Nhật với hai nước
thuộc bán đảo Triều Tiên. Lập luận rằng các cuộc họp Chữ thập Đỏ
vừa được lên kế hoạch giữa hai nước thuộc bán đảo Triều Tiên ở
Panmunjeom tháng 9 năm 1971 có tác động hạn chế căng thẳng ở Bán
đảo Triều Tiên, Tanaka bắt đầu “chính sách một Triều Tiên” được
người tiền nhiệm của ông ủng hộ. Tanaka sử dụng cách tiếp cận thực
dụng và linh động hơn khi làm việc với Nam-Bắc Triều Tiên, không
như thời kỳ của Hatoyama Ichiro (1954-1956). Tanaka lập luận rằng
giai đoạn hòa dịu trên bán đảo Triều Tiên làm cho “Điều khoản Hàn
Quốc” năm 1969 không còn phù hợp nữa.