trừng trị phe đối lập đang lớn mạnh. Sự trấn áp này sau đó khiến nhiều
nhà lập pháp Mỹ phải ủng hộ việc cắt viện trợ quân sự nhằm buộc
Park phải có trách nhiệm hơn với những quan ngại của Mỹ về nhân
quyền. Sau đó đến kế hoạch rút bộ binh của Mỹ năm 1977 vì lời hứa
tranh cử tổng thống của Carter năm 1976. Vụ bê bối Koreagate cũng
bắt đầu phát triển giữa những năm 1970 khi giới truyền thông đưa tin
về hoạt động vận động hành lang bất hợp pháp của Hàn Quốc ở Điện
Capitol, sự kiện này càng làm tình hình tồi tệ hơn nữa. Khi thái độ
chống Park lớn dần ở Hoa Kỳ, chính quyền Carter kiên trì với chính
sách trừng phạt Hàn Quốc mà nếu thành công, sẽ gây tổn hại nghiêm
trọng đến liên minh an ninh Mỹ — Hàn.
Trong cuộc phỏng vấn với tờ Washington Post ngày 16 tháng 1 năm
1976, ứng viên tổng thống lúc bấy giờ là Carter tuyên bố ý định rút bộ
binh và vũ khí hạt nhân khỏi Bán đảo Triều Tiên. Hội đồng ba bên,
một nhóm tư nhân đa quốc gia do David Rockerfeller mới lập ra, họp
vào tháng 5 năm 1976 ở Kyoto và bày tỏ sự tin tưởng với chính sách
mới của Carter về việc ủng hộ rút quân. Tháng 3 năm 1977, Carter
chính thức tuyên bố kế hoạch rút toàn bộ bộ binh Mỹ khỏi Hàn Quốc
trong 4-5 năm. Bất chấp sự chống đối mạnh mẽ của Park, Carter thực
thi lời hứa tranh cử của mình với tốc độ đáng cảnh báo đối với phía
Hàn Quốc. Hai năm rưỡi tiếp đó là giai đoạn mà không nghi ngờ gì
nữa, chính là giai đoạn tồi tệ nhất trong quan hệ song phương của hai
nước từ cuối Chiến tranh Triều Tiên năm 1953.
Để chống lại chính sách mới của Carter, Park sử dụng chiến lược
bác bỏ dứt khoát sự tồn tại của các vấn đề nhân quyền ở Hàn Quốc.
Khẳng định Carter không nắm bắt được tình hình chia rẽ quốc gia
cũng như cuộc đối đầu quân sự giữa Hàn Quốc với “nhà nước bất hảo”
của Triều Tiên, các cố vấn của Park chỉ trích chính sách rút quân của
Carter không chỉ là một hành động phản bội mà còn là một chính sách
hoạch định kém sẽ làm tổn hại đến lợi ích của Mỹ trong việc duy trì
trạng thái hiện tại trên Bán đảo Triều Tiên. Ngược lại, chính quyền