các nhóm chính sách ở Washington. May mắn cho Marcos, Richard
Nixon và Henry Kissinger từng chứng tỏ là những người ủng hộ
thường xuyên cho các chế độ độc tài trên thế giới, và dễ dàng chấp
nhập các luận điếm của Marcos khi ủng hộ chế độ cầm quyền khẩn
cấp.
Thuật ngữ này xuất phát từ tựa một cuốn sách viết về một trợ
lý trước đây của Marcos, Primitivo Mijares (Conjugal Dictatorship).
Cho dù nguồn gốc chính xác quyền lực của bà là gì, rõ ràng là
vào một số thời điểm sau năm 1972 bà đã có thể xác lập nền tảng
quyền lực tương đối tự chủ bên trong chế độ. Theo một cựu cố vấn
của Marcos, Imelda có thể đe dọa đến Marcos bằng cách tố cáo, hay
bằng một “vụ ly hôn công khai đình đám và Marcos không bao giờ
muốn thách thức bà.” Wurfel mô tả mối quan hệ này như là "hăm dọa
lẫn nhau” (Filipino Politics, 241).
Vai trò quan trọng của Đệ nhất Phụ nhân gây nên bất đồng rất
lớn bên trong chế độ, vì nhiều nhà kỹ trị, cũng như nhiều người trong
số các thành phần tương đối chuyên nghiệp hóa của quân đội, căm
phẫn khả năng gây ảnh hưởng của bà đến các chính sách và các vị trí
bổ nhiệm quan trọng.
Cuộc cải cách đất đai yếu ớt của Marcos tương tự bị vô hiệu
hóa bởi hoạt động thu hồi đất vô độ của chế độ; và các cuộc cải cách
ngân hàng yếu ớt bị vô hiệu hóa bởi hoạt động thâu tóm ngân hàng
của Marcos và thân hữu của ông. Xem Hutchcroft, Booty Capitalism,
140-142.
Wurfel, Filipino Politics, 159, 266. Wurfel viết rằng các ước
tính không chính thức về quy mô của Mặt trận Giải phóng Quốc gia
Moro đạt đến khoảng 60.000 chiến binh.
Byeongil Rho ghi lại rằng vào năm 1976 có khoảng 120 tù
nhân chính trị ở Hàn Quốc, trong khi vào năm 1977 có khoảng 4.700
tù nhân chính trị ở Philippin. Giữa năm 1972 và 1977 có khoảng 10
trường hợp tử vong từ xung đột chính trị trong nước ở Hàn Quốc và