chìa sườn về phía chúng tôi, cậu ấy chĩa khẩu chống tăng ra từ dưới cái
xích xe và nã luôn năm phát vào sườn nó, phát này nối tiếp phát kia. Thật là
một cú ghê gớm! Chiếc Ferdinand của chúng tôi nổ tung thành từng mảnh –
cả tháp pháo, mọi thứ!
Trên đường về, bọn Đức bắn đạn cối trúng vào bọn tôi. Lúc đó chúng tôi đã
về rất gần chiến hào của mình rồi. Những phát đạn nổ rất gần. Một phát
sượt sát cạnh. Một phát khác bắn trượt phía trước. Tôi nói: “Malưsev, chạy
mau!” Tại sao cậu ấy không làm theo nhỉ? Tôi cũng không biết nữa. Hoặc
cậu ấy đã bị thương hoặc bị ù tai mất rồi. Tôi kéo mạnh chân cậu ấy, “Đi
nào!” Tôi không nhớ điều gì xảy ra tiếp theo. Tôi chỉ tỉnh lại trong chiến
hào khi đạn bắn đã ngớt. Mọi người nói: “Một phát đạn nổ trúng cả hai
cậu”. Tôi mặc một áo giáp ở dưới chiếc telogreika và áo choàng. Anh biết
không, chiếc áo choàng của tôi bị xé tung, nhưng tôi không bị một vết trầy
nào. Malưsev bị xé rách chân phải. Tại sao chúng tôi không chờ tới trời tối
nhỉ? Đại đội trưởng đã bảo chúng tôi, “Hoàn thành nhiệm vụ và quay về lập
tức. Bằng không, các cậu sẽ chết. Bọn Đức sẽ bò tới và giết các cậu.”
Chúng tôi đem theo một khẩu súng chống tăng, một khẩu Nagan và một
khẩu tiểu liên với chỉ một băng đạn. Malưsev không mang nhiều hơn, cậu
ấy tin chắc mọi sự đều sẽ tốt đẹp. Tôi được nhận một phần thưởng khi kết
thúc chiến tranh, huy chương “Vì Dũng cảm”, nhờ chiến công ấy. Đúng ra,
tất cả những ai từng bắn hạ xe tăng đều xứng đáng được thưởng 500 rúp và
Huân chương Sao Đỏ. Tất nhiên, phần thưởng trước tiên và tuyệt nhất vẫn
là “Vì Dũng cảm” và kế tới là Huân chương Vẻ vang.
Khi hoàng hôn xuống, hầu hết chiến sĩ đại đội chúng tôi đều đã hy sinh.
Lúc khởi đầu, chúng tôi có 60 người tức 30 khẩu súng chống tăng (một đại
đội chống tăng của trung đoàn). Giờ chúng tôi chỉ còn lại khoảng một chục
khẩu đội. Chỉ huy trung đội cũng bị giết. Một tuần trôi qua và chúng tôi
nhận được tiếp viện lấy từ những người địa phương, thuộc lứa sinh năm