bọn Đức. Trong những khóa huấn luyện tôi đã từng thấy một cuộc xung
phong bằng gươm do hai hoặc ba kỵ đội liên tục cùng lúc – đó là một cảnh
đáng sợ. Một cuộc xung phong chớp nhoáng bởi khối đông các kỵ binh
được quân chủng kỵ binh Nga gọi là “tuyết lở”, và tôi nhận ra rằng nếu hai
khẩu pháo 45 mm của tôi bị tấn công bởi lính Vlasov, chúng tôi sẽ không
có cơ hội nào sống sót: chúng rất nhanh nên không thể dùng đạn mảnh mà
chặn lại được. Vì thế tôi đề nghị kho đạn cấp cho loại đạn ghém. Nhưng
loại đạn này không có sẵn ở kho trung đoàn nên tôi không yên tâm chút
nào. Một hôm, trong khi hành quân ở tuyến hai, tôi nhận ra một khấu pháo
Xôviết 45 mm bị bỏ lại bên đường. Có vẻ bọn Đức đã chiếm được và sử
dụng nó. Tôi cho hai người tới chỗ khẩu pháo đó và họ đem về hai quả đạn
ghém. Tôi lập tức bảo người đánh xe chở đạn đi nhặt về tất cả đạn ghém
mà anh ta có thể tìm thấy. Sau đó tôi cảm thấy an tâm hơn – trong trường
hợp bị bọn kỵ binh Vlasov tấn công – nhưng trong suốt chiến dịch
Belorussia chúng tôi không bao giờ chạm trán với lính Vlasov: có lẽ chúng
đã rút lui về phía tây mà không tham chiến.
Tại một ngôi làng nhỏ, hai kỵ đội đã phải chiến đấu trong khi đang hành
quân, họ bắt đầu xua bọn Đức ra khỏi ngôi làng về một cánh đồng trống trải
phía sau. Khẩu pháo của tôi, dưới sự chỉ huy của Trung sĩ Cận vệ
Palanevich, đã khai hỏa bắn nhanh lên bọn Đức, khi bọn này đang từ từ rút
lui. Đám bộ binh Đức rút lui nã đạn tiểu liên vào khẩu pháo chúng tôi từ
bên sườn trái. Một cơn mưa đạn trút lên tấm lá chắn của khẩu pháo và vào
sườn chiếc xe kéo pháo nhưng không trúng ai. Đó là lần đầu tiên đám tân
binh của chúng tôi (những người đã gia nhập pháo đội sau chiến dịch
Nevel) tham gia chiến đấu, và bọn họ phản ứng rất khác nhau.
Khẩu đội trưởng, xạ thủ pháo và người nạp đạn bình tĩnh khai hỏa khẩu
pháo, trong khi người vác đạn, Chikhin, lại quyết định đấy là lúc phải đào
hào trốn. Không có lệnh từ trung sĩ hay tôi, anh ta đã đào một chiến hào