người thứ ba. Một thời gian sau Lisnevski tìm được cách thoát khỏi câu
chuyện bẩn thỉu đó và quay trở về nhóm chúng tôi. Chúng tôi không biết
được điều gì đã xảy ra với hai người còn lại. Những lời đe dọa sẽ động viên
vào quân đội của Vlasov không bao giờ trở thành sự thật. Hoặc là chúng
không có đủ thời gian hoặc bọn Đức không đồng ý vũ trang cho những ai
công khai tỏ ra thù địch với chúng. Hoặc tên Bạch vệ kia chỉ nói dối tất cả
mọi chuyện với chúng tôi để dọa nạt mà thôi.
Trong khi ấy, tình hình ngày càng trở nên đáng lo. Chiến tranh nhanh
chóng tiến về phía chúng tôi từ hướng tây. Đấy là những tin tức vừa tốt
lành lại vừa đáng lo ngại. Trước khi thất trận, bọn Đức có thể sẽ “đóng cửa
lại” tàn sát tất cả chúng tôi. Những máy bay ném bom của người Mỹ oanh
tạc các thành phố, các tuyến đường sắt và các xa lộ lân cận. Máy bay ném
bom bay hàng đàn tới Stuttgart và tiến hành “ném bom rải thảm”, thả hàng
trăm quả bom cùng một lúc dựa theo các tín hiệu vô tuyến. Nhằm làm vô
hiệu hóa hỏa lực phòng không của Đức, người Mỹ thả xuống từ các máy
bay ném bom rất nhiều những dải kim loại. Tôi nghe những người nông
dân Đức nói rằng những dải kim loại ấy được thả xuống để đầu độc tất cả
các gia súc.
Mùng một tháng Tư năm 1945 là ngày cuối cùng chúng tôi còn làm
việc trên tuyến đường sắt. Sau đó chúng tôi chỉ còn ngồi trong nhà kho, bị
khóa kín cửa, chờ cho mọi việc xảy đến. Tất cả chúng tôi đều rất căng
thẳng. Trong một ngày như thế một máy bay tiêm kích của Mỹ đã tấn công
khu trại chúng tôi và nã xuống một loạt đạn từ khẩu đại liên cỡ lớn của nó,
nhưng may mắn thay, trong chúng tôi không có ai bị thương cả. Chúng tôi
sớm nghe thấy tiếng đại bác nổ từ phía xa. Chúng tôi lắng nghe nó như thể
đó là tiếng nhạc mừng cho sự giải thoát chính mình. Vào một trong những
ngày đó chúng nhìn thấy từ cửa sổ của mình một đoàn tù binh rất đông có
lính áp giải dừng lại nghỉ đêm trên cánh đồng đằng sau con sông. Rồi