dẫn vào trong nhà. Tại đó họ bị lục soát, kiểm tra giấy tờ từng người và tìm
xem có ai giấu vũ khí trong người hay không.
Tôi bước vào ngôi nhà. Một lớp rơm vàng mới tinh được phủ lên trên sàn
nhà, một trong những chiếc cửa sổ được che bằng một tấm chăn, trong
phòng có chừng năm tên Đức, gồm cả một tên thiếu uý hãy còn trẻ. Chúng
bắt chúng tôi tháo balô, mặt nạ phòng độc ra và đặt tất cả lên bàn, và bắt
đầu lục soát cẩn thận. Một tên trong bọn tìm thấy mẩu salo (mỡ lợn muối –
Oleg Sheremet.) trong túi của tôi, phủ đầy vụn bánh mì. Hắn lẳng lặng bỏ
nó vào túi mình, cùng một miếng đường còn sót lại mà tôi định để dành
phòng những khi thiếu thốn.
Lục tung chiếc túi cứu thương của tôi, bọn Đức không lấy đi món gì, ngoại
trừ sau khi tìm thấy một hũ đựng mật ong bên ngoài có dán nhãn một loại
thuốc nào đó, xoay xoay nó trong lòng bàn tay một lúc lâu, ngửi ngửi
nhưng rồi cho rằng đó là một loại thuốc và ném trả nó lại vào trong túi. Một
tên Đức vừa tuột chiếc thắt lưng có khảm những miếng đồng kiểu Cápcadơ
khỏi quần tôi rồi đeo thử nó vào người, vừa nói: "Đồ lưu niệm, gut, gut..."
Tôi hiểu ra rằng chúng đang lấy đi bất cứ thứ gì của chúng tôi mà chúng
thích, và sự đê tiện này làm tôi thấy kinh ngạc: tại sao một người lính lại đi
lấy một miếng đường, một mẩu mỡ lợn, một chiếc khăn tay còn sạch của
một người lính khác?
Thế rồi một tên feldwebel (hạ sĩ quan) tóc đỏ mặt đầy tàn nhang lôi cuốn
album có chứa những bức vẽ của tôi về cuộc đời quân ngũ từ chiếc túi đựng
mặt nạ phòng độc ra, miệng nói "kunstmaler, kunstmaler" (nghệ sĩ), và xem
nó một cách chăm chú. Đám còn lại vội đặt balô của chúng tôi sang một
bên và cũng bắt đầu chăm chú nhìn, ngón tay chỉ trỏ, miệng cười thích thú.
Tên thiếu uý cấm lấy cuốn album, xem qua nó rồi tra hỏi tôi:
"Từ đâu tới?"
Tôi trả lời: