- Thím Tham! Bảo đứa nào mua bao nến thẻ hương. Bà Phủ! Bà đi têm
trầu, và pha nước lễ.
Mọi người nhìn nhau ngạc nhiên.
Ông Phủ vớ cái khăn, rồi lên gác, ông Tham lững thững theo đi. Ông Phủ
còn hăng tiết, vừa đi vừa quay lại nói:
- Anh không bảo được chú! Chú cậy khôn hơn cả các cụ!
Rồi ở trên gác, ông dọn dẹp các đồ đạc trang hoàng trên lò sưởi, lấy phất
trần quét tước rất sạch sẽ. Ông Tham đứng im ở góc nhà, chắp tay chờ,
nhìn. Nhưng thấy ông Phủ làm việc, chẳng lẽ ông cứ giương mắt mà xem,
ông bèn chạy lại đỡ. Ông Phủ gắt:
- Chú không được phép nhúng tay vào những việc thành kính này!
Ông Tham ngơ ngác, lủi thủi về chỗ cũ.
Ông Phủ lấy cái khăn bàn phủ lên lò sưởi, và đặt hai cây nến đồng hai
bên; rồi cung kính, ông bưng cái ảnh cụ cố, đặt ngay ngắn vào giữa.
Lúc ấy, bà Phủ và bà Tham ở dưới nhà đã rón rén đưa lễ vật lên, rồi đứng
khép nép ở góc tường.
Tự tay ông Phủ cắm nến và thắp hương, đặt trầu và pha nước.
Rồi ông giải chiếc chiếu trước chỗ thờ ông đứng nghiêm trang, chắp tay,
đoạn thụp xuống lễ bốn lễ, rồi quỳ, suỵt soạt khấn. Gian gác có vẻ tôn
nghiêm một cách cảm động.
Cả nhà im lặng, ông Tham mặt cắt không được hột máu, rất lo sợ. Ông
biết rằng vì anh quá khắc, nên mới sửa phạt ông bằng cách khấn các cụ về
để trừng trị ông là đứa con vô phúc. Ông đang vơ vẩn nghĩ ngợi tủi thân,