nhưng nó trong sạch, nó hồn nhiên. Cho tới bây giờ, khi các anh đã trở
thành những ông quan cách mạng, những ông tư sản đỏ, thì tôi vẫn là kẻ si
tình đi tìm đôi mắt Trương Quỳnh Như.
Các anh từng hỏi tôi: “Mày làm cách mạng cái kiểu gì vậy?” Còn bây
giờ thì tôi hỏi các anh:
-Các anh làm cách mạng cái kiểu gì vậy?
Câu hỏi của các anh tôi đã trả lời rồi. Còn câu hỏi của tôi. Các anh có
trả lời được không? Có dám trả lời không hay vẫn phớt lờ? Và âm thầm
chia nhau cái miếng thịt Việt Nam béo bở này?
Tôi là một chàng thi sĩ ngốc nghếch nên vẫn nhớ những ngày mưa
dầm dề trên phố Huế, những buổi sáng sương mù, những cây vả lùn, lá to
như cái sàng gạo và trái thì bự như quả cam sành, bổ làm đôi, trong ruột có
những cái nhụy màu tím sẫm.
Một năm ở Huế tôi làm được gì trong “cuộc đời hoạt động cách mạng”
của tôi? Móc nối vài người, hẹn hò vài cô giao liên trong hồ Tịnh Tâm, học
tập lén lút vài khóa chính trị sơ đẳng. Chẳng là gì cả. Toàn bộ thời gian là
mơ mộng và ôm ấp cái lạnh cắt da của mùa Đông. Mùa Đông, tôi chỉ có
một cái áo lính kaki dày cộm. Tôi đem nhuộm đen cho khác với màu của
anh lính Sài Gòn.
Sau những biến cố đẫm máu thời Ngô Đình Diệm, Huế đã co lại. Khi
tôi đến, thì Huế như cô gái nhỏ ngái ngủ cuộn mình trong chiếc mền dày cũ
kỹ, nhõng nhẽo. Huế dẫn tôi đi trên những con đường rợp bóng cây, những
bãi cỏ dày bên bờ sông Hương. Tôi thường ngồi lại trên những rễ cây già
bò xuống mé nước, nghe con sóng nhỏ róc rách, thủ thỉ, ân ái. Tôi gặp Huế
tháng Chín năm 1965, năm tôi hai mươi tuổi còn Huế thì mười tám.
Chúng tôi yêu nhau, khờ dại và âm thầm.